Hiền tài và đất nước phát triển
(Arttimes) - Một quốc gia hay một tổ chức, cơ quan, đơn vị nếu có “hiền tài”, đặc biệt là người đứng đầu có tài cao, học rộng, mẫn tiệp và có đạo đức trong sáng sẽ ảnh hưởng sâu sắc, quyết định tới sự phát triển của quốc gia, dân tộc, tới sự trong sạch, vững mạnh của tổ chức, cơ quan, đơn vị…
Cách đây 580 năm (tức năm 1442) nhà vua anh minh Lê Thánh Tông giao cho Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc Tử Giám Tết tửu (sau là Lễ bộ Thượng thư) Thân Nhân Trung (người Kinh Bắc, một danh nhân lịch sử, văn hóa xuất sắc của dân tộc thế kỉ XV) viết bia Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Ngài viết: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia; nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Văn Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội (ngày 29/01/1960).
Ảnh: Tư liệu
Người xưa giải thích: “hiền tài” là người tài cao, học rộng và có đạo đức, có ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của quốc gia. “Nguyên khí” là sức mạnh vật chất, tinh thần tiềm tàng nơi con người, nơi đất nước đó và mong muốn có giá trị quan trọng với mỗi quốc gia. “Hiền tài chính là cốt lõi, chất ban đầu để làm nên sự sống còn và phát triển đất nước. Quốc gia có nhiều hiền tài và biết sử dụng hiền tài thì sẽ phát triển vững mạnh. Một đất nước không có hiền tài không thể giữ vững được độc lập, tự chủ, không thể phát triển kinh tế- xã hội, triều chính có thể rối loạn.
Trong lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh giành độc lập và giữ nước, dân tộc ta có không biết bao hiền tài, trở thành Anh hùng dân tộc như Ngô Quyền, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Quang Trung - Nguyễn Huệ, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp,v.v…
Chủ tịch Hồ Chí Minh là bậc “hiền tài” vĩ đại trong lịch sử của đất nước. Người tạo nên sức sống thần kì của “nguyên khí quốc gia” để có một Việt Nam từ chỗ không có tên trên bản đồ thế giới, toàn dân làm nộ lệ trở thành một quốc gia “chưa bao giở đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Lời Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng), một đất nước sóng gió trong đại dịch COVD-19 nhưng vẫn trở thành 1 trong 20 quốc gia đứng đầu thế giới về thương mại quốc tế và tăng trưởng GDP.
Những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám - 1945, trong bối cảnh đất nước “ngàn cân treo sợi tóc” bởi thù trong, giặc ngoài, nạn đói hoành hành, nạn dốt (95% số dân mù chữ), Chủ tịch Hồ Chí Minh chèo chống “con thuyền cách mạng” vượt qua thử thách giành thắng lợi vẻ vang; vẽ nên bản đồ thế giới một nước Việt Nam độc lập, thoát khỏi ách đô hộ của đế quốc, thực dân. Trong muôn vàn công lao vĩ đại, Bác có một kì tích là nhận ra hiền tài và trọng dụng nhân tài, dẫn dắt tầng lớp trí thức vào công cuộc kháng chiến kiến quốc. Đó là các nhân sĩ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Phan Kế Toại; các kĩ sư, luật sư, bác sĩ Tây học như Phan Anh, Nguyễn Văn Huyên, Tôn Thất Tùng, Hoàng Minh Giám, Trần Đại Nghĩa, Trần Duy Hưng, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Thọ, Đặng Văn Ngữ, Trần Đức Thảo; các văn nghệ sĩ nổi tiểng như Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Hữu Phước, Thế Lữ, Văn Cao, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi,v.v…(trong số đó một số người không phải là đảng viên cộng sản). Tiêu biểu nhất là Bác nhận biết, lựa chọn, giao nhiệm vụ tổng chỉ huy quân đội, rồi kí sắc lệnh phong Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp và hàm tướng cho 10 sĩ quan chỉ huy cấp cao khác trong Quân đội (năm 1948). Với số nhân sĩ, trí thức được Bác trọng dụng cùng với các vị lãnh đạo Đảng, Chính phủ, vận nước đã tạo bước ngoặt, kháng chiến kiến quốc thành công. Nước Việt Nam bước sang trang sử mới, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bảo vệ Tổ quốc, đi vào sự nghiệp đổi mới có rất nhiều “hiền tài” nên mới phát triển như ngày nay. Tuy nhiên, bên cạnh nhiều thành công cũng còn những khiếm khuyết về việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, ảnh hưởng không nhỏ đến tạo lập môi trường “nguyên khí quốc gia”.
Nhiều năm qua, việc lựa chọn, sử dụng cán bộ ở nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương có hiện tượng “tiền tệ, quan hệ, hậu duệ” chứ ít coi trọng “trí tuệ”. Nhiều cán bộ có chức có quyền, người đứng đầu, áp dụng triệt để cái “quy trình”, quy hoạch, bổ nhiệm, sắp xếp con em, người thân trong khi năng lực, đạo đức thua kém nhiều người khác. Một bộ phận “hiền tài” là con em Nhân dân lao động học giỏi, có tài, đức nhưng do không chạy chọt, bố mẹ không có chức vụ, quyền hạn nên không có cơ hội được trọng dụng. Một số đi du học tại các quốc gia phát triển không về nước làm việc. Chất xám bị “chảy máu”, lãng phí một nguồn lực tinh hoa.
Dưới các triều đại phong kiến, Nhà vua chọn nhân tài thông qua con đường khoa bảng, tổ chức thi hương, thi hội, thi đình. Nhiều khoa thi hàng nghìn người dự, vua chỉ chọn 15-20 người tài bổ làm quan. Ngày nay, chế độ ưu việt nhưng thực hiện cơ chế bổ nhiệm, lựa chọn theo ý chí của lãnh đạo, của người đứng đầu nên dễ chủ quan, cảm tính. Không ít người thiếu tài, đức lại trở thành cán bộ lãnh đạo nên có nhiều trường hợp không đủ tầm, không có tâm. Đó là “một bộ phận không nhỏ”, hình thành “lợi ích nhóm”, vi phạm hoặc lợi dụng kẽ hở của pháp luật, của cơ chế thị trường tham ô, tham nhũng có tổ chức, gây thiệt hại ngân sách Nhà nước, tài sản của Nhân dân.
Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày 9/12/2021, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Trương Thị Mai báo cáo: Trong 5 năm (2016-2020) có 1.623 đảng viên lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi tham ô, tham nhũng; hơn 25 nghìn đảng viên bị kỉ luật do suy thoái tư tưởng chính trị, có biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, 8.300 đảng viên bị xử lí kỉ luật và pháp luật; 15 nghìn đảng viên bị xử lí kỉ luật do đạo đức, lối sống như đánh bạc, rượu chè, bê tha, mê tín,v.v…
Đại hội giữa nhiệm kì Khóa VI, Đảng xác định 4 nguy cơ: Tụt hậu về kinh tế; chệch hướng; tham nhũng, quan liêu và diễn biến hòa bình. Đáng chú ý là 2 nguy cơ tụt hậu và tham nhũng.
Về tụt hậu, nước ta 100 triệu dân vẫn là quốc gia ở mức nghèo. Năm 2021, GDP đạt 354,868 tỉ USD, trong khi đó thế giới và khu vực: Nước Mỹ 330 triệu dân GDP 22.939,580 tỉ USD; Nhật Bản 126,5 triệu dân GDP 5.081,776 tỉ USD; Cộng hoà Pháp 66 triệu dân GDP 2.940,428 tỉ USD; Hàn Quốc 52 triệu dân GDP 1.823,852 tỉ USD; Singapore 5,9 triệu dân GDP 378,645 tỉ USD; Thái Lan 70 triệu dân GDP 546,223 tỉ USD; Philipine 110 triệu dân GDP 385,737 tỉ USD,v.v…Về tiền tệ, mệnh giá VNĐ giá trị thấp trên thế giới (thấp hơn cả đồng Kíp Lào, đồng Riên Campuchia) chỉ cao hơn một số nước Châu Phi.
Về năng suất lao động Việt Nam thấp hơn nhiều nước Đông Nam Á. So với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan thì một lao động của họ có năng suất lao động bằng 8-13 lần lao động nước ta,v.v…
Từ nay đến năm 2045, để Việt Nam trở thành nước công nghiệp, có thu nhập cao thì “hiền tài” phải tạo lập “nguyên khí quốc gia” tiềm tàng hơn bao giờ hết. Xây dựng nền văn hóa và trọng dụng nhân tài theo tư tưởng Hồ Chí Minh “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, có đội ngũ hiền tài “Cần kiệm liêm chính”, “Chí công vô tư”, v.v…
NoneBình luận