Danh nhân Đặng Huy Trứ: người Việt Nam đầu tiên đưa nhiếp ảnh thế giới vào Việt Nam

Trong Tạp chí Nhiếp ảnh Việt Nam số 3 (35) năm 1984 và báo Người Hà Nội số 2/1985, qua bài viết của nhà thơ lão thành Khương Hữu Dụng, chúng ta có thêm một lượng thông tin đáng tin cậy về sự xuất hiện của nhiếp ảnh thế giới vào Việt Nam qua hiệu ảnh “Cảm Hiếu Đường” mà chủ nhân là Đặng Huy Trứ. Ông là một sứ giả, nhà quân sự, chính trị gia, nhà kinh tế năng động; đồng thời là một nhà thơ nổi tiếng sau "Thần Siêu" (Nguyễn Văn Siêu) và "Thánh Quát" (Cao Bá Quát) của đất Thăng Long ngàn năm văn vật ở cuối thế kỷ XIX.

Người Việt Nam đầu tiên đưa nhiếp ảnh thế giới vào Việt Nam

Đặng Huy Trứ (tự Hoàng Trung), sinh ngày 24 tháng 03 năm Ất Dậu (tức 19/5/1825) tại thôn Giáp Đông, xã Bác Vọng, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa thiên Huế).

Danh nhân Đặng Huy Trứ: người Việt Nam đầu tiên đưa nhiếp ảnh thế giới vào Việt Nam - 1

Hoàng Kim Đáng sưu tầm và chụp lại.

Năm 18 tuổi (1843), Đặng Huy Trứ đã thi đỗ cử nhân và trong vòng một năm ông làm tới 130 bài thơ chữ Hán, đương thời được triều đình nhà Nguyễn đánh giá là xuất sắc. Năm 22 tuổi (1847) Đặng Huy Trứ đã ra Hà Nội với ý định vừa học thêm vừa viết sách nhưng sư không thành nên quay về quê hương dạy học rồi ra làm quan Triều Nguyễn. Năm 39 tuổi (1864), Đặng Huy Trứ được bổ nhiệm chức quan Bố chánh tỉnh Quảng Nam (chức quan đứng đầu một tỉnh).

Năm 40 tuổi, tháng 5 năm Ất Sửu (6/1865), Đặng Huy Trứ được triều đình nhà Nguyễn cử đi sứ sang Trung Quốc. Ngày 2/7 năm ấy, ông đến Trung Quốc (tại Hương Cảng) với nhiệm vụ “Thám phỏng dương tình” (tức là nghe ngóng thái độ của các nước phương Tây đối với ta). Tại Hương Cảng, ông thấy kỹ thuật nhiếp ảnh do người Anh quốc đưa sang, đang được nhiều người ưa chuộng, ông bèn chụp thử hai bức chân dung: một bức mặc Triều phục, một bức ông mặc như thương nhân Trung Quốc và thử vẽ hai bức chân dung nói trên để so sánh. Hai bức chân dung vẽ hiện đang còn để tại nhà thờ chính của họ Đặng Huy ở xã Thanh Lương (Hương Trà – Huế) và một bức để ở nhà thờ chi thứ ba của họ Đặng Huy ở xã Gia Thụy (Gia Lâm – Hà Nội).

Hai bức ảnh chân dung hiện chưa tìm thấy hoặc không còn nữa vì thời tiết, khí hậu ở Việt Nam khắc nghiệt, ẩm ướt, tác động lên mặt giấy làm hư hỏng ảnh. Nhưng điều chắc chắn rằng: ý định học nghề ảnh và mở hiệu ảnh ở Hà Nội cũng được cụ thực hiện trong chuyến đi ấy.

Năm 42 tuổi (1867), Đặng Huy Trứ lại được cử sang Trung Quốc với nhiệm vụ mua sắm vũ khí. Nhân thể, ông thuê một người Trung Quốc tên là Dương Khải Trí mua sắm giúp các dụng cụ máy móc về nhiếp ảnh và ông học cách chụp để về nước mở hiệu ảnh.

Cuối năm 1868 (vào tuổi 43), Đặng Huy Trứ về nước thì đầu năm 1869 (tức ngày 2 tháng 2 năm Kỷ Tỵ), hiệu ảnh được khai trương tại Lạc Sinh Công Điếm ở phố Thanh Hà (nay là phố Ngõ Gạch), gần kề với Ô Quan Chưởng (Hà Nội). Hiệu ảnh lấy tên là “Cảm Hiếu Đường”.

Ngày khai trương hiệu ảnh “Cảm Hiếu Đường” đã làm chấn động chốn Hà Thành bởi lời khuyến cáo (thực chất là quảng cáo) văn viết khá hay, giàu tính nhân văn:

“Trộm nghe từ xưa tới nay không ai làm sống lại được người thân đã mất. Chụp ảnh có khả năng tái hiện rất giống, rất đẹp tinh thần con người…

Một bức thư nhà truyền đến, lúc ăn lúc ngủ xem mà chẳng thấy dung nhan. Hai hàng thân chủ hương hồn ghi đủ họ tên mà không rõ diện mạo. Trèo lên núi rậm trông cha, trèo lên núi trọc trông mẹ, mong ngóng mà nào thấy mặt. Cầu cõi âm, cầu cõi dương hòng mắt thấy tai nghe mà nào có được. Xưa Vương Kiên thành tâm ứng mộng, nhưng thức ngủ đều không thấy hình ảnh. Thiếu Văn trích máu để mong nhận ra hài cốt nhưng mặt mày đều đã nát cùng với cỏ cây. Thọ Xương từ quan đi tìm mẹ nhưng bóng hạc đã khuất núi; Đinh Lan đẽo tượng thờ cha nhưng tóc da khắc lên khó giống…Tình này, cảnh ấy, ai có, ai không? Nay muốn sớm tối vui như trẻ được mặc áo hoa, ngoài nghìn dặm mà vẫn y như trước mắt, khiến mọi người đều tỏ được tấm lòng thành hiếu, thì chỉ có chụp ảnh là cách làm hay nhất”.

Khi thông báo giá ảnh mới thật là hợp lý và hấp dẫn.

- Ảnh mặc đại trào phục (quan lớn) ảnh đầu, mỗi ảnh giá tiền là 4 đồng, tính ra là 27 quan 5 tiền.

- Ảnh mặc trào phục thường, ảnh đầu, mỗi ảnh giá tiền là 4 đồng, tính ra là 22 quan tiền.

- Ảnh mặc quần áo sang trọng, ảnh đầu, mỗi ảnh giá tiền là 3 đồng, tính ra là 16 quan 5 tiền.

- Trong một tấm ảnh, lại có ảnh người khác, nếu là đồng liêu thì mỗi ảnh thêm 3 quan tiền, nếu là cấp dưới thì mỗi ảnh thêm 2 quan, nếu là con em nhỏ, người giúp việc, mỗi ảnh thêm 2 quan, in lại thì như trên…

Dân Hà Thành thời ấy kéo đến chụp ảnh tại “Cảm Hiếu Đường” ngày một đông.

Nhà chiến lược quân sự thế kỷ XIX

Thiên bẩm trở thành nhà chiến lược quân sự được phát lộ từ khi Đặng Huy Trứ lên 9 tuổi, ông đã được nghe kể về mưu lược của 7 nhà quân sự lớn đã để lại 7 bộ binh thư: “Tôn Tử”, “Ngô Tử”, “Lục Thao”, “Tư Mã Pháp”, “Hoàng Thạch Công tam lược”, “Quý Liên tử”, “Lý Vệ Công vấn đối”… Năm 1854 (29 tuổi), khi còn dạy học ở Quảng Nam được xem cuốn sách “Vũ kinh thất thư” ông đã biên soạn lại và chú thích công phu. Ông nghĩ rằng dù là quan văn cũng không thể không biết những kiến thức về quân sự: “Xưa nay thiếu gì những thư sinh phá giặc trừ gian, xông pha nơi trận mạc, liều lĩnh giữa hòn tên mũi đạn. Thiếu gì những nhà Nho ngồi trước chén rượu mâm cơm mà lòng vẫn nghĩ đến chuyện chế ngự kẻ thù, mặc áo cừu mang cân đai mà lòng vẫn lo điều binh khiển tướng”.

Sau này, ông vẫn tiếp tục sưu tầm những sách quân sự. Năm 1869, ông thành lập nhà in “Chí Trung Đường” ở phố Thanh Hà (Hà Nội) và cho in 2 cuốn binh thư là: “Ký sự tân biên” của Lương Huy Bích viết dưới thời Tây Sơn và cuốn binh thư của Trung Quốc tên là “Kim thang tá chử Thập nhị trù”. Ông gửi sách biếu các bạn bè. Trong thư biếu sách gửi lên Tổng đốc Thanh Hóa là Tôn Thất Hành, ông viết: “Bốn phương giặc giã đó là cái nhục của Khanh đại phu. Muốn rửa nhục này không thể không đọc binh thư”.

Năm 1869, Đặng Huy Trứ được điều sang làm Thương biện quân sự ở Sơn Hưng Tuyên, ông đã vận dụng kiến thức quân sự của mình để giúp Ông Ích Khiêm và Hoàng Kế Viêm trong việc thành lập đội quân mới và xây dựng tiết chế về kỷ luật trong quân đội.

Vừa làm kinh tế, vừa hoạt động văn hóa, vừa nghiên cứu chiến lược quân sự, truyền bá kinh nghiệm quân sự và khích lệ lòng yêu nước trong sĩ phu và dân chúng… Ông đã thực sự trở thành nhà chiến lược quân sự.

Nhà kinh tế năng động

Cùng với việc xây dựng quân đội, ông là người đặt vấn đề kinh tế và khoa học kỹ thuật ở một vị trí có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp chống ngoại xâm và xây dựng đất nước. Quan điểm tiến bộ này của ông càng được củng cố khi ông được phái đi Quảng Đông và tiếp xúc với những điều mới lạ của nền văn minh phương Tây bắt đầu du nhập vào Trung Quốc.

Tình hình kinh tế và tài chính của nước ta lúc đó đang trong tình trạng nguy ngập. Sau khi mất 6 tỉnh Nam Kỳ, số dân đóng thuế giảm hẳn 1/3. Trước đây, trên địa bàn cả nước có 60 địa điểm xuất nhập khẩu, năm 1851 chỉ còn 20 điểm. Năm 1859, số người chết vì đói kém, ôn dịch lên đến 600.000 người.

Trước tình hình sản xuất thấp kém và đời sống khó khăn như thế, Đặng Huy Trứ thấy nhu cầu cấp thiết của đất nước là phải phát triển thương mại và nông nghiệp, đẩy mạnh việc khai mỏ, cải tiến hệ thống giao thông vận tải. Ông dự kiến: nếu tích cực trong 10 năm, thì có thể làm giàu cho đất nước và có đủ cơ sở vật chất để thắng giặc.

Đánh giá cao vai trò của thương nghiệp, ông tình nguyện nhận lấy “nghề mạt” (nghề bị coi rẻ trong xã hội cũ) là đi buôn để làm giàu cho đất nước. Trong tờ sớ tâu lên nhà vua, ông viết: “Gia đình tôi là gia đình nhà Nho đã 4, 5 đời rồi, nghề buôn bán dầu là nghề mạt, nhưng chịu ơn nước và tự xét mình, xin đưa khả năng khuyển mã ra báo đáp, đảm nhận việc tài chính quốc gia, sớm tối lo toan, chạy khắp Đông Tây, dẫu thịt nát xương tan không từ nan”. Đó là vào thời điểm 1866. Cũng trong năm 1866, ông được phép thành lập một cơ quan kinh tế và thương mại lấy tên là “Bình chuẩn sứ”. Ông cho mở nhiều hiệu buôn ở Hà Nội như: Lạc Sinh điếm, Lạc Thanh điếm, Lạc Đức điếm. Ông tổ chức việc lưu thông hàng hóa ở các miền trong nước. Cơ quan chỉ đạo đặt ở Hà Nội nhưng hoạt động mở rộng đến tận các tỉnh Quảng Nam (miền Trung), Vĩnh Long, Gia Định (miền Nam)…

Để phát triển thủ công nghiệp, ông tổ chức các hộ sản xuất riêng lẻ theo ngành nghề và cho các hộ này vay vốn trước để mua nguyên liệu rồi khuyến khích họ bán hàng cho Nhà nước.

Làm công việc buôn bán, hàng ngày tiếp xúc với một số lượng lớn về tiền và hàng, nếu không giữ được phẩm chất liêm chính thì sẽ không tránh khỏi những việc tham ô, biển thủ của công thành của tư. Những tên do ông đặt cho các hiệu buôn như: Lạc Sinh, Lạc Thanh, Lạc Đức cũng đã nói lên sự quan tâm của ông đối với vấn đề đạo đức thanh liêm trong việc buôn bán như thế nào. Hãy xem sau đây bài thơ ông chỉ bảo người trong cơ quan của ông:

“Dẫu người đời tham lam thành thói

Lòng son này giữ với cao xanh

Còn tấc dạ, người tin mình,

Của công nghìn vạn coi khinh được nào.

Chỉ buộc với có bao cách buộc,

Mật chết ruồi mật ngọt chút thôi,

Của công ta dặn những ai,

Sao không thẹn với đất trời là nên”

(1867)

Ông coi việc làm giàu là một đạo đức lớn không thể xem khinh. Bỏ vốn ra cùng Nhà nước kinh doanh thì sẽ cũng được chia lợi. Ngay từ thời đó, ông đã nhìn ra vai trò của tư nhân cùng với Nhà nước theo phương châm: “Công tư lưỡng lợi” do ông đề ra. Làm giàu là chính đáng nhưng chớ ham mà xâm phạm của công. Nghĩ đến lợi nhưng phải nghĩ đến tiếng thơm vì “danh lợi xưa nay khôn vẹn cả”, và:

Túi nặng ngàn vàng đâu phải quý

Quan khen một tiếng ấy là vinh

Tư tưởng kinh tế của Đặng Huy Trứ quả thực đã đi trước thời đại và giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay và ông được xem như là một nhà chiến lược kinh tế năng động, một doanh nhân văn hóa bậc cao ở thế kỷ XIX.

Từ nhận thức đến hành động, Đặng Huy Trứ nêu tấm gương liêm khiết, tích cực chống tham nhũng, đó là những ngày được bổ nhiệm làm quan triều Nguyễn điều hành kinh tế và đương nhiên ông trở thành nhà chiến lược kinh tế năng động.

Đặng Huy Trứ - một nhà thơ lớn cuối thế kỷ XIX

Làm thơ từ năm 18 tuổi (1843), Đặng Huy Trứ đã thi đỗ cử nhân và trong vòng một năm ông đã làm tới 130 bài thơ chữ Hán. Đương thời được triều đình nhà Nguyễn đánh giá là xuất sắc. Vừa hoạt động trên nhiều lĩnh vực, cho đến cuối đời ông đã để lại trên dưới 2.000 bài thơ và áng văn xuôi.

Đặng Huy Trứ không những được đánh giá cao ở trong nước mà khá nhiều danh sĩ, học giả uyên bác của Trung Quốc đương thời cũng nhìn nhận ông một cách trân trọng, đánh giá ông như một siêu nhân qua ngọn bút của các văn nhân và sĩ phu như: La Nghiên Cù (văn nhân -1865), Đoàn Hữu Trưng (1866), Trương Tương Phố (1868 - văn nhân); Vương Phúc Thuận (sĩ phu -1868), Diệp Đề Tân (sĩ phu), Lý Tích Bồi (văn nhân -1868)…

“Như quân, tiêu cách thị thi hào

Nguyệt sứ tằng phân trước tác hào

Thí bả thiên chương tạm lưu bá

“Lạc Dương” chỉ giá thử hồi cao”

Tạm dịch:

“Như ông (Đặng Huy Trứ - TG) phong cách xứng thi hào

Trước tác hàn lâm vốn thuở nào

Tạm trích vài chương công bố thử

“Lạc Dương” giá giấy hẳn lên cao”

(La Nghiên Cù, văn nhân,1865)

“…Đại gia văn vận tồn thiên cổ

Nam quốc nhân tài kiến nhất ban”

Tạm dịch:

“Văn chương bậc lớn lưu thiên cổ

Đệ nhất nhân tài rạng nước Nam”

(Cao Tử Đăng - Tiến sĩ)

Tên tuổi và sự nghiệp của Đặng Huy Trứ đâu chỉ gắn với nhiếp ảnh. Thời gian ở Hà Nội, ông còn biên dịch tài liệu của Anh Quốc về cách chế tạo tầu thủy chạy bằng hơi nước, mở cửa hàng bán sách, lập nhà in xuất bản sách và mở cửa hàng buôn bán kiếm lời, giúp kinh phí cho nghĩa quân Triều Nguyễn. Năm 1873, Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ nhất, cũng là lúc Đặng Huy Trứ rút khỏi Hà Nội lên Đồn Vàng (Hưng Hóa) cùng với lãnh tụ nghĩa quân Hoàng Kế Viêm chống Pháp. Từ đây, sự mất còn của hiệu ảnh “Cảm Hiếu Đường” vì đã đóng cửa hoặc nhượng lại cho một chủ nhân khác. Năm Giáp Tuất (1874) Đặng Huy Trứ mất tại Đồn Vàng - Hưng Hóa. Thi hài được nghĩa quân đưa về quê hương an táng.

Danh nhân Đặng Huy Trứ: người Việt Nam đầu tiên đưa nhiếp ảnh thế giới vào Việt Nam - 2

Quê hương Đặng Huy Trứ (Cầu ngói Thanh Toàn - Huế). Ảnh: Hoàng Kim Đáng

Cho đến hôm nay, sự đánh giá về Đặng Huy Trứ vẫn hết sức được trân trọng: “…Đặng Huy Trứ nổi lên như một nhà thơ xuất sắc, một học giả uyên thâm, một chiến sĩ đấu tranh đến cùng cho độc lập tự do của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân. Cuộc đời của Đặng Huy Trứ là sự phát triển đầy đủ của cả Nhân, Trí, Dũng, là những đức tính hoàn chỉnh của người trí thức chân chính”.

Dân tộc ta tự hào có người con Trung Hiếu vẹn toàn như Đặng Huy Trứ

Lịch sử Việt Nam tự hào về nhân vật lỗi lạc Đặng Huy Trứ.

Văn học Việt Nam tự hào về nhà thơ lớn Đặng Huy Trứ.

(Vũ Khiêu - 19/8/1988)

“…Trên con đường đổi mới, trong số những người đi đầu tiêu biểu vào thời gian này (của thế kỷ XIX-TG)… không thể bỏ qua một nhân vật lỗi lạc, có đầu óc đổi mới, đó là Đặng Huy Trứ” (Vũ Khiêu, “Xã hội Việt Nam từ xưa và những di sản tư tưởng của nó”,1989).

Với Nhiếp ảnh Việt Nam, nếu như không có tư liệu nào phát hiện mới hơn, Đặng Huy Trứ đương nhiên là người có công đầu đưa nhiếp ảnh thế giới vào Việt Nam và mãi mãi xứng đáng là danh nhân tiêu biểu của giới nhiếp ảnh Việt Nam như “trong Bách Khoa thư” đã ghi nhận.

Hoàng Kim Đáng

Tin liên quan

Tin mới nhất

Đường lên Điện Biên hào hùng và đầy xúc cảm qua 70 tác phẩm mỹ thuật

Đường lên Điện Biên hào hùng và đầy xúc cảm qua 70 tác phẩm mỹ thuật

Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 – 07/5/2024), Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam tổ chức triển lãm “Đường lên Điện Biên”, giới thiệu tới công chúng 70 tác phẩm hội họa, đồ hoạ, điêu khắc, ký hoạ, áp phích, sáng tác trong giai đoạn 1949 - 2009 của 34 tác giả, được lựa chọn trong bộ sưu tập của Bảo tàng.