Mặt trời xanh lá cây (Kỳ III)
Tôi được anh Tuấn giao làm chỉ huy phó, phụ trách kỹ thuật công trường thủy lợi Chư Xuê, nơi chúng tôi đã phải ngủ qua đêm tránh muỗi trên một phiến đá ngay giữa con suối cạn nước...
Nhà ban chỉ huy được dựng trên một quả đồi hình mai rùa. Trước giải phóng đây là vùng giáp ranh giữa địch và ta. Địch thường xuyên đóng một đại đội ở đây, nhưng cứ ba tháng phải thay quân một lần vì khí hậu quá khắc nghiệt. Mỗi lít nước chỗ chúng tôi nặng một cân mốt, muỗi độc thì nổi tiếng cả vùng. Buổi sáng gà rừng vào tận nhà chọi nhau với bầy gà nhà chúng tôi nuôi. Chỗ Chua Cáp bên kia cánh rừng săng lẻ còn nghe thấy cả tiếng hổ gầm vọng về. Còn cây đa ở quả đồi đối diện sáng sáng có hàng trăm con khỉ ăn quả, vừa ăn vừa choét choét, trêu chọc những người khách không mời mà đến.
Công trường của chúng tôi là một công trình trên hạn ngạch, thuộc vốn của Trung ương quản lý. Các đại đội thanh niên xung kích làm thủy lợi từ các xã, huyện trong toàn tỉnh lần lượt kéo nhau đến đây, quyết biến đổi khí hậu, đất đai, tập quán canh tác và bộ mặt của một vùng rừng rộng lớn và vắng vẻ này.
Chỉ huy trưởng công trường là một đồng chí Thường vụ huyện uỷ già, tóc đã bạc quá nửa, một người bám trụ vùng này từ những năm sáu mươi, sáu mốt, có cái tên dân tộc nghe tức cười: Ma Gầm. Tuy tên là Ma Gầm nhưng ông già này hiền khô, điệu bộ khoan thai, ăn nói từ tốn, lúc nào cũng nhẩn nha như một già làng. Trong ban chỉ huy công trường có Khảng phụ trách quản lý hậu cần. Những ngày đầu tiên công việc ngập đầu ngập cổ khiến tôi quay cuồng như một anh nhà có đám, ít thời gian rảnh rỗi để nghĩ ngợi này nọ. Tôi nghiệm ra một điều: Thời gian và công việc bận rộn là những phương thuốc nhiệm màu chữa được bách bệnh, từ thất tình, buồn phiền vì lâu lên chức lên lương, bệnh ba hoa, ấm đầu, kèn cựa địa vị, mất đoàn kết nội bộ, chủ quan kiêu ngạo... Hơn nữa nỗi đau của tôi tuy tê dại nhưng không đến nỗi đột ngột. Với tôi hiện nay sợ nhất là gặp lại Mai trong những giấc mơ.
Anh Tuấn xuống kiểm tra công trường chúng tôi luôn. Có lần anh nói, không nhìn tôi:
- Anh bạn ạ, chú ý giữ gìn sức khỏe, không quỵ mất đấy. Mình sẽ cho Lâm xuống phụ thêm với các cậu.
Tôi ngạc nhiên:
- Anh ta có thông với quyết định mở công trường xây dựng hồ chứa nước ở vùng này đâu?
- Đôi khi không chờ thông rồi mới làm, mà cứ làm đi rồi sẽ thông. Địa hình ở Tây Nguyên bị đồi núi, khe suối chia cắt, hoặc lượn sóng nhấp nhô, đường kênh dẫn nước do vậy phải dựa vào thế đất mà đi. Rõ ràng làm thủy lợi ở đây không phải là chuyện dễ dàng, nhưng qua những kết quả khảo sát của chúng ta, cho thấy nguồn nước cho Tây Nguyên không phải thiếu như lúc đầu ta tưởng. Xây dựng các công trình thủy lợi trên đất Tây Nguyên cũng không phải quá khó như có lúc chúng ta nghĩ.
Tôi dè dặt nói với anh Tuấn:
- Em nhớ năm học thứ ba của chúng em, khi anh còn dạy ở Đại học Thủy Lợi. Có lần anh đã nói: “Làm khoa học đôi khi cũng phải liều”. Có khi quyết định mở công trường thủy lợi này là chúng ta đang liều phải không anh?
Anh Tuấn trầm ngâm, hồi lâu mới trả lời tôi, hình như anh cân nhắc, lựa chọn từng ý, từng lời, tác phong giảng bài của thầy Tuấn năm nào.
- Vào Đắk Lắk này mà không làm được công trình thủy lợi trên vùng đất bazan sao được! Tiềm năng nông nghiệp ở đây thật là to lớn, phong phú một cách kỳ lạ về chủng loại, cao về năng suất sinh vật, ngắn về thời gian sinh trưởng, phát dục. Người ta có cảm giác là ở Tây Nguyên cây gì cũng trồng được, con vật gì cũng nuôi được, vấn đề là có đủ nước. Với tổng lượng nước mưa rơi xuống Tây Nguyên lên tới 100 tỷ mét khối một năm, rõ ràng ở Tây Nguyên không thiếu nước, mặc dù các sông suối chuyển ra ngoài lãnh thổ chừng 40 tỷ mét khối, tối thiểu cũng 30 tỷ những năm ít mưa.
Tôi ngắt lời anh Tuấn:
- Mạng sông ở Tây Nguyên tương đối thưa, không như ở các vùng đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ. Đặc biệt trên các cao nguyên đất đỏ bazan có thể mở mang nông nghiệp, lại càng thưa sông.
Anh Tuấn nói như chộp lấy cái ý trên của tôi:
- Vấn đề là ở chỗ ấy, phải xây dựng các hồ chứa nước lớn. Tất nhiên phải chọn những vùng có điều kiện thuận lợi để xây dựng thủy lợi, những thung lũng giữa núi như vùng này.
Tôi băn khoăn:
- Nhưng theo em biết thì chưa hề có một công trình thủy lợi nào đáng kể trên đất bazan ở nước ta cũng như ở nước ngoài.
Mũi anh Tuấn hơi chun lại, đôi mắt sáng bừng lên. Khuôn mặt anh thô nhưng đôi mắt thật đẹp những lúc anh tranh cãi.
- Nếu chưa có người đi trước, thì chúng ta chịu bó tay ư? Đắk Lắk rộng hai triệu héc-ta, là một tỉnh miền núi có diện tích canh tác nông nghiệp lớn nhất so với các tỉnh miền núi trong cả nước. Đất đai Đắk Lắk lại rất tốt, địa hình tương đối bằng phẳng, có nhiều khả năng phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là cây công nghiệp phục vụ xuất khẩu. Trong kinh tế của ta, xuất khẩu là một yêu cầu lớn hiện nay. Muốn có sản xuất nông nghiệp mạnh, trước hết phải giải quyết được nước cho cây trồng. Bao đời nay, kinh tế Đắk Lắk phát triển chậm, đời sống nhân dân các dân tộc còn nghèo khổ, chính là do thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp.
Tôi ngắt lời anh Tuấn:
- Tầm quan trọng của nước, thôi khỏi bàn. Tây Nguyên là một địa bàn trọng yếu về kinh tế và quốc phòng, một trong những vùng tập trung có nguồn nông, lâm sản phong phú nhất và có nguồn xuất khẩu chủ lực của cả nước như gỗ, cao su, cà phê... Rõ rồi, cũng khỏi bàn. Vấn đề ở đây là liệu có thất bại không, khi chúng ta khởi công xây dựng một công trình thủy lợi khá lớn trên đất bazan mà trong tay không có tài liệu, cơ sở chắc chắn nào cả.
Giọng nói anh Tuấn trở nên gay gắt:
- Biết thất bại mà cứ làm là ngu. Nhưng vì sợ thất bại mà không dám làm lại là hèn. Liều lĩnh không có cơ sở là tác phong của những thằng dốt. Tài liệu về thủy lợi trên đất bazan không có thì đúng quá đi chớ! Đã ai viết về vấn đề mới mẻ này bao giờ đâu. Nhưng cậu bảo chúng ta không có cơ sở là không đúng. Mình đã đến Đức Lập xem xét, nghiên cứu Hồ Tây có từ hồi còn mồ ma thằng Pháp. Hồ nhỏ, đập giữ nước cũng nhỏ và thấp chừng bốn mét, nhưng vẫn có nước quanh năm. Mình cũng đã đến vùng Quảng Phú xem xét, nghiên cứu những con mương dẫn nước trồng lúa, trồng bắp của đồng bào. Mương ngắn vài cây số, nhưng lúc nào cũng có nước. Vậy là thực tiễn chỉ rõ: có thể đắp đập, khơi mương trên vùng đất đỏ. Lượng nước thấm trên kênh lúc đầu tuy nhiều, song khi đã bão hòa thì lượng nước thấm không đáng kể. Độ tan rã của đất bazan khi được bảo dưỡng tốt vẫn đảm bảo được nguyên dạng. Hơn nữa phòng hóa nghiệm địa chất của Viện Thủy lợi đã kết luận cho chúng ta về độ kết dính của đất bazan, độ thấm nước và những tính chất hóa - lý của đất đều không gây trở ngại nào đáng kể cho việc xây dựng các công trình thủy lợi nhỏ và vừa. Phải nhìn xa trông rộng. Không những hiểu Đắk Lắk ngày nay mà phải hiểu cả Đắk Lắk xưa và mai sau...

Minh họa Lê Huy Quang
Anh Tuấn về tỉnh. Hai hôm sau, tôi đã thấy Lâm khăn gói xuống công trường. Tôi nháy mắt. hỏi:
- Thủ trưởng Tuấn lẹ quá, hè!
Lâm cười gượng:
- Với ông ấy lúc nào cũng như chạy lũ lụt.
Khi tôi dẫn Lâm đi thăm nơi sẽ là lòng hồ, Lâm bảo tôi:
- Anh cho dọn sạch những bụi cây kia đi. Còn phải nghĩ tới chuyện thả cá sau này nữa chứ.
- Ôi dào, ăn con nào rào con nấy. Hơn nữa lao động đang còn phải tập trung đào kênh chính, kịp có nước cho vụ đông xuân năm nay của mấy xã cánh nam.
Lâm nói rất tự tin:
- Không nên chỉ nhìn trước mắt. Bắn một mũi tên phải nhằm mấy đích. Tại sao ở đây ta không thực hiện khẩu hiệu kết hợp thủy lợi với nuôi cá. Anh Quang ạ, các anh có nhiều điều hay và cũng không ít điều dở. Chính anh Tuấn có lần đã nói cho tôi nghe một câu chuyện như vầy: Hồi còn dạy ở Đại học Thủy lợi, để thực hiện nghị quyết của Công đoàn phát triển chăn nuôi, các anh ấy bàn bạc cả buổi mà chưa tìm ra đáp án. Anh em ở gia đình khỏi nói. Cái khó là đối với anh em ở tập thể. Nuôi heo ư? Đồ nấu cám bã đâu, lại còn chỗ nuôi. Nuôi gà ư? Toi dịch thì mất hết vốn. Nuôi chó, lỡ thành chó dại cắn người thì khốn. Thôi thì nuôi vịt, lại có con mương đào quanh nhà, tiện lắm. Thế là bảy anh em độc thân, ăn bếp tập thể, quyết định chung tiền ra chợ mua mười con vịt cỏ nhỏ xíu về nuôi. Chuồng vịt giải quyết không khó. Người nuôi thì mỗi người một ngày. Đến mục thức ăn mới thật gay go, nan giải. Lại bàn, cuối cùng đi tới giải pháp: Đến phiên người nào chăn, phải bỏ suất cơm tập thể của mình cho vịt ăn, đi ăn tiệm. Bảy hào một đĩa bít tết thịt bò, lương tháng sáu bảy chục, nên có thể chấp nhận được. Lần ấy chăn nuôi tập thể của bộ môn anh Tuấn thắng lợi rực rỡ, cuối năm được Công đoàn trường cấp giấy khen. Khi tính lỗ lãi giá thành một ký thịt vịt nuôi gấp khoảng hai mươi lần cách nuôi của người nông dân. Chăn nuôi bằng bất cứ giá nào, làm thủy lợi bằng bất cứ giá nào... Trong thời kỳ chiến tranh còn khả dĩ. Anh Quang ạ, tôi nhớ câu chuyện anh Tuấn kể và quan sát thấy chúng ta làm ăn ít chú ý đến hiệu quả kinh tế quá.
Tôi vỗ tay, thốt lên:
- Mà sao tôi chưa được nghe anh Tuấn nói chuyện ấy bao giờ nhỉ? Ba mươi năm đánh giặc, khẩu hiệu: “Bằng bất cứ giá nào” đã động viên quyết tâm dời non lấp biển của dân tộc ta chống lại những kẻ thù lớn mạnh hơn gấp bội và tạo ra những chiến thắng thần kỳ. Bây giờ trong xây dựng kinh tế chúng ta đang trả giá cho cái khẩu hiệu ấy. Không phải là tôi không nêu ra ý kiến dọn sạch lòng hồ khi đắp xong con đập tạm, nhưng bị bác bỏ thẳng thừng.
- Ai bác?
- Chỉ huy trưởng công trường, Huyện uỷ. Nói tóm lại là các giới có thẩm quyền.
- Kể cả anh Tuấn?
- Chưa báo cáo với anh Tuấn.
- Cầu cứu đi. Tôi tin là anh Tuấn có thể cứu vãn được tình hình.
Tôi chọc tức Lâm:
- Xem ra cái thói hoài nghi và thờ ơ của ông cũng đã giảm đi tới bốn, năm phần, chí ít là đối với thủ trưởng Tuấn.
Lâm cười rất hiền lành:
- Không phải tôi chỉ khâm phục mà còn rất mê anh Tuấn. Càng hiểu càng mê anh. Kỳ lạ vậy, hen! Tôi vốn có thói quen chỉ làm điều mình đã đọc, đã biết và tin. Còn nếu chưa tin chắc thì tuyệt đối không bao giờ bắt đầu cả.
- Kể cả khi ông tỏ tình với cô gái mà ông yêu?
- Vợ tôi ngỏ lời yêu tôi trước. Anh không nhớ rằng chúng ta đang sống ở vùng cư dân theo chế độ mẫu hệ, phụ nữ bắt chồng. Ở vùng ta đây gái lấy chồng, sông chảy ngược.
Tôi nói nghiêm chỉnh:
- Thôi không đùa nữa. Tôi sẽ lại đưa vấn đề dọn sạch lòng hồ ra bàn trong cuộc họp giao ban tối nay. Anh Lâm ủng hộ nhé.
- Không cần phải anh dặn.
Cuộc họp giao ban tối hôm ấy, Lâm không được mời và khi tôi trình bày cặn kẽ cái lợi, cái hại của việc dọn sạch lòng hồ trước khi hạp long, thì ông Ma Gầm gục gặc đầu tỏ vẻ đồng tình ngay. Tội nghiệp ông già, một người bám trụ buôn làng hơn nửa đời người, phát động quần chúng đứng lên đấu tranh với địch thì không chê vào đâu được, chỉ mới vài ba năm sau ngày giải phóng, con người quắc thước năm nào nay đã thành một ông già hom hem. Tưởng những năm hòa bình xây dựng lại đất nước, quê hương bị tàn phá, công việc không còn nguy hiểm, chết chóc như ngày nào, sẽ trẻ ra, sống lâu. Nào ngờ chỉ những họp hành, lo nghĩ cách làm ăn, cũng bào mòn lòng người, khiến râu tóc cứ dài ra, bạc thêm. Trước kia ông thông thạo công việc của mình bao nhiêu thì bây giờ, với cương vị một ủy viên thường vụ huyện uỷ phụ trách kinh tế, ông bỡ ngỡ với công việc bấy nhiêu. Chỉ huy trưởng một công trường thủy lợi, nhưng ông vẫn kiêm nhiệm công việc ở cơ quan huyện uỷ, chỉ riêng việc chạy lên chạy xuống hàng ngày cũng đã hao người. Khi nghe cán bộ chuyên môn nói đến hai chữ hạp long, ông ghé tai tôi hỏi nhỏ: “Hạp long là gì?”. Tôi giải thích, hạp long là tiếng chuyên môn của ngành thủy lợi, chỉ lúc chặn được dòng nước khi đắp đập, thì ông à lên một tiếng, lắc đầu tỏ vẻ chê trách cái kẻ nào sính chữ, có ý lòe bịp thiên hạ, làm cho một khái niệm vốn dễ hiểu, đẹp là thế, trở nên bí hiểm, xa lạ với quần chúng. Một cán bộ lãnh đạo như ông, chuyên môn không biết, muốn quyết định điều gì cứ phải quay trái, quay phải, hoặc quay đằng sau để hỏi những cố vấn. Có khi nghe chuyên môn trình bày vẫn chưa hiểu, nhưng chẳng lẽ không quyết định thì sợ giảm uy tín của người phụ trách. Thôi thì nhìn vào mắt kẻ giúp việc của mình, chăm chú nghe giọng nói của hắn mà định xem mức độ gật hay lắc, ký ngay hay bảo còn cần nghiên cứu thêm, tươi cười khen ngợi hoặc nhắc nhở, quở mắng kẻ đang đứng trước mặt, chờ mình định đoạt số phận một vấn đề, một cung cách quản lý, tổ chức nào đó. Một huyện miền núi mới được thành lập như huyện ông đang công tác đây, đếm trên đầu ngón tay được mấy người, mà công việc cứ ùn ùn, ngập đầu ngập cổ, mới mẻ và khó khăn đến hoa mắt, váng đầu. Đưa bọn trẻ vào Thường vụ ư, chưa được. Chúng nó hăng hái đấy, nhưng rèn luyện còn ít, kinh nghiệm lãnh đạo chưa có bao nhiêu, quan điểm lập trường chưa được thử thách, kiểm nghiệm qua thực tiễn đấu tranh lại hay xốc nổi, vội vàng, dễ gây rách việc. Vậy là mấy ông già chia nhau nắm các chức vụ, người thì kiêm bốn, năm chức trưởng kẻ ít cũng đôi ba ngành quan trọng. Chưa biết thì học, hỏi, tìm đến các cán bộ kỹ thuật, đi nghiên cứu tại chỗ những đơn vị bạn có thành tích, có kinh nghiệm, mượn sách chuyên môn về chong đèn đêm để đọc, ghi chép, thậm chí học thuộc lòng một số khái niệm cơ bản, một số đoạn nếu thấy cần thiết. Trước kia, hồi kháng chiến sao thanh thản trong lòng. Quân thù hung hãn là vậy, chiến tranh khốc liệt làm sao, sống và chết chỉ cách nhau có gang tay, sợi tóc, nhưng có đường lối, phương châm của Đảng soi đường, có hậu phương vững chắc để dựa, có tình đồng chí, đồng bào thiêng liêng, đoàn kết nhất trí muôn người như một động viên, mọi việc cứ băng băng, ào ào xốc tới; rủi ngã xuống hy sinh, cũng vui lòng vì biết chắc sẽ có người khác thay mình tiến tới, không có điều gì phải ân hận, bận tâm. Hồi ấy nghĩ đến thắng lợi mà sướng run cả người. Kẻ thù như thằng Mỹ ta còn đánh bại thì ở trên đời này không việc gì không làm được, không đỉnh cao nào không chiếm lĩnh được, không khó khăn nào không vượt qua được...
Có đêm tôi đi gác về khuya, công trường đã vắng lặng, những người ngủ muộn cũng đã buông mùng lên giường nằm, thấy ông Ma Gầm một mình một ngọn đèn khuya, ngồi ghi ghi chép chép, đọc những tài liệu để ngập trên bàn, chiếc kính trắng trễ xuống sống mũi, thỉnh thoảng lại ngồi thừ ra suy nghĩ. Những lúc ấy tôi những muốn vào, nói một vài câu chuyện vui với ông, uống một chén nước trà nóng, đề nghị xem có giúp ông được gì hơn nữa ở cái công trường ngổn ngang trăm công nghìn việc, nhưng lại sợ ông đánh giá thằng nhỏ ngựa non háu đá, ốc chưa mang nổi mình ốc, mà cứ muốn bay bổng... “Ngày xưa, hồi còn...”, không phải một vài lần tôi được nghe ông mở đầu câu chuyện như thế, mà âu cũng là quy luật tâm lý của những người già, bao giờ cũng tìm dịp để dạy bảo con cháu điều gì bổ ích trong cái kho kinh nghiệm và kiến thức phong phú của mình. Ngày xưa khi chúng tôi còn bằng tuổi các đồng chí bây giờ, thậm chí nhiều người còn trẻ hơn, chúng tôi đã nắm những chức vụ cao, công việc hệ trọng hơn nhiều.
Ông Ma Gầm có một đức tính quý hơn ở nhiều người khác, đó là sự quan tâm chu đáo của ông đối với những người cộng sự, đặc biệt đối với anh em cán bộ trẻ. Ông hỏi han tỉ mỉ về từng người, hiểu khá rõ hoàn cảnh gia đình của những người trong đơn vị do ông quản lý trực tiếp. Một hôm ông bảo tôi:
- Là chỉ huy phó công trường, cậu có biết thằng Khảng đang muốn bỏ vợ không?
Tôi ngạc nhiên:
- Không. Có chuyện gì thế, thưa chú?
Ồng nheo mắt nhìn tôi:
- Chú mày quan liêu nhé. Bạn bè với nhau mà không biết chuyện động trời như thế sao? Kỳ nghỉ phép về quê vừa rồi nó đã đâm đơn ra tòa rồi đấy.
- Nghe nói vợ cậu ta hơn chồng những ba tuổi, mà chú!
Những lúc thân mật tôi gọi ông bằng chú.
- Nói giỡn - ông Ma Gầm trợn mắt - hơn tuổi kém tuổi đâu phải là cái cớ để bỏ nhau. Chúng nó lại đã có với nhau một mặt con.
- Tôi nghe đâu thằng bé không phải là con của nó, mà là con của ông hàng xóm.
Ông Ma Gầm bật cười:
- Ai biểu thế! Chính thằng Khảng tung ra dư luận ấy để lấy cớ làm đơn xin ly dị vợ. Kỳ này họp chi bộ tao đưa chuyện này ra coi thử nó trả lời ra răng. Nghe đâu nó bồ bịch với con nhỏ nào chồng chết, đã có bốn, năm con.
- Ai biểu chú vậy?
- Là tao nghe nói qua nói lại thế thôi.
Tôi đem chuyện này hỏi Khảng. Cậu ta nhận là đã làm đơn ly dị vợ, đang chờ tòa giải quyết. Còn chuyện bồ bịch thì chối thẳng thừng và cậu ta nhìn tôi từ đầu đến chân, nói rõ từng chữ:
- Tôi là Đảng viên. Chuyện gì đã có Đảng của tôi giải quyết. Anh hỏi chuyện vợ con là có ý định gì?
Tôi đứng lặng đi, cố nuốt giận, không nói gì cả.
Một buổi tối thứ bảy, ông Ma Gầm gọi tôi lại phòng ông. Ông cho biết chi bộ phân công ông ấy và Khảng giúp đỡ tôi phấn đấu vào Đảng và hỏi tại sao là đối tượng kết nạp đã lâu mà vẫn chưa là Đảng viên. Tôi chẳng biết trả lời như thế nào cả, mặt cứ nóng dần lên, ông nhìn tôi vẻ thông cảm, gật gù nói:
- Phàm con người ta cứ học đến lớp bảy là tiểu tư sản hóa. Chú mày có công nhận điều ấy không? Là cái anh trí thức chúa hay chao đảo, ngả nghiêng. Có giác ngộ mấy, đi theo cách mạng mấy, gặp khó khăn, hy sinh, vẫn cứ lòi cái đuôi anh trí thức tiểu tư sản ra. Những anh trí thức có quyền, có địa vị lại càng dễ chao đảo ngả nghiêng, lúc tả, lúc hữu, đặc biệt là hay ngả sang hữu, không kiên trì lập trường, tư tưởng như anh vô sản. Chú mày định cãi lại tao chớ gì! Trí thức xã hội chủ nghĩa hay trí thức cũ có mấy nỗi khác nhau. Phàm khi đã học tới lớp bảy là con người ta biến chất đi rồi, tiểu tư sản hóa đi rồi. Mà đã tiểu tư sản hóa thì dù gốc của anh ta là công nhân, là bần cố nông đi chăng nữa cũng chao đảo như thường.
Ngừng một lát, ông nói tiếp, giọng thân tình:
- Nói thiệt, tao quý mày. Tuy mày là trí thức, là người Hà Nội, nhưng mày cũng giản dị, xuề xòa như chúng tao, lại đã kinh qua trường quân đội cách mạng. Mày lại không ngại khổ, bảo làm gì cũng làm, giao việc gì yên tâm việc nấy, nên tao muốn giới thiệu mày vào Đảng...
Cả buổi tối, tôi ngồi nghe ông Ma Gầm nói về cuộc đời hoạt động cách mạng của ông, nhiều chuyện có thể ghi lại đem xuất bản thành sách được. Nhưng cũng có nhiều nhận định, phán xét của ông phải chỉnh lý, thậm chí phải tranh cãi. Nhưng tôi chỉ ngồi chăm chú nghe, phần không muốn làm ông cụt hứng, phần biết cãi lại cũng chẳng ăn nhằm gì với một ông già đã đến tuổi về hưu, gần hết cuộc đời của mình, chiến đấu ở trong rừng, khi đất nước được giải phóng, bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sức lực đã chẳng còn bao lăm, kiến thức hạn hẹp, những kinh nghiệm cũ đôi khi lại có hại.
(Còn nữa)
Bình luận