Bản tình ca trong khói lửa

Đây là một bản tình ca đẹp, vào loại đẹp nhất của những người làm cách mạng, một bản tình ca sinh ra từ trong cách mạng và trong khói lửa chiến tranh, trải dài theo những chặng đường kháng chiến của đất nước. Tình yêu ấy có cả lý tưởng cách mạng, có bom đạn, mất mát, hi sinh chen giữa những nụ hôn nồng nàn và những dòng nước mắt nhớ thương...

Người cha vợ tuyệt vời

Cách Niêm Phò - quê hương của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh ít bước là làng Nam Dương, có gia đình ông Nguyễn Hữu Hoàng là một nhà nho yêu nước, thường gọi bằng cái tên thân mật "Ấm Hoàng". Ông từng bị thực dân Pháp quản thúc ở Quảng Điền từ năm 1938 bởi có quan hệ thân thiết với nhà cách mạng Phan Bội Châu. Ông cũng là người đã hết sức giúp đỡ ông Nguyễn Tất Đạt, tức Cả Khiêm và bà Thanh - là chị và anh ruột của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Từ năm 1940, mẹ ông Ấm Hoàng là bà Trần Thị Sành đã nuôi ông Cả Khiêm và bà Nguyễn Thị Thanh trong nhà, xem hai ông bà người Nghệ này như ruột thịt, mặc dầu lúc đó chưa biết Nguyễn Ái Quốc - Nguyễn Tất Thành là ai...

Bà Sành là vợ ông Nguyễn Hữu Nhiếp, chồng mất sớm khi bà đang còn trẻ, đẹp, nhưng bà quyết ở vậy nuôi năm người con là ông Nguyễn Hữu Hoàng, Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Hữu Hòe, Nguyễn Thị Giá và Nguyễn Thị Cự nên người. Hai người con gái lấy chồng ra ở riêng, còn lại ba người con trai có vợ có con vẫn ở trong nhà mẹ, đoàn kết thương yêu nhau, được mẹ nuôi dạy và đùm bọc như thời trẻ thơ. Chỉ có ông Ấm Hoàng vào năm 1942 ra chợ Phù Lễ, mở cửa hiệu thuốc Bắc, tạo công ăn việc làm và xây dựng gia đình, lập gia thất cho ông Cả Khiêm...

Ông Nguyễn Hữu Hoàng lấy bà Lê Thị Yến và sinh được năm người con: Nguyễn Thị Cúc sinh năm 1921, rồi tiếp đến là Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Hữu Chí, Nguyễn Thị Hảo, Nguyễn Thu Thảo.

Lúc này ở Quảng Điền chi bộ đảng bị đánh phá hầu như sắp tan rã, thì đầu năm 1942, Nguyễn Chí Thanh từ nhà tù Buôn Ma Thuột vượt ngục trở về, củng cố phong trào, tập họp quần chúng khôi phục lại tổ chức. Nguyễn Chí Thanh nhớ lại khi ở trong tù, được đồng chí Hoàng Anh luôn kể chuyện gia đình Ấm Hoàng cho nghe, và anh đã về bắt liên lạc với ông. Nhân dân Quảng Điền trong đó có gia đình ông Ấm Hoàng đã một lòng son sắt cưu mang đùm bọc nuôi dưỡng và bảo vệ Nguyễn Chí Thanh cùng Trần Bá Song bí mật hoạt động. Nguyễn Chí Thanh đã mở các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cơ sở và những quần chúng cảm tình Đảng ở Quảng Điền. Trong số người đó, anh đã chú ý và có nhiều cảm tình với một người con gái hăng say học tập, tính nết thùy mị, đó là cô con gái đầu lòng của ông Ấm Hoàng: Nguyễn Thị Cúc.

Cơ sở Đảng ở huyện Quảng Điền được củng cố, hoạt động tốt. Tháng 7 năm 1943, Nguyễn Chí Thanh trên cương vị Bí thư Tỉnh ủy vào huyện Phú Lộc để xây dựng lại phong trào thì lại bị bắt. Trước khi bị bắt anh có nhắn với Cúc là sẽ trở lại Quảng Điền để nói với Cúc một điều quan trọng. Anh đã mến phục cô gái làng Nam Dương, anh đã trộm nhớ yêu thầm Cúc, nhưng anh lại bị bắt, biết bao giờ mới được trở lại để nói với Cúc những lời của trái tim?

Bản tình ca trong khói lửa - 1

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cùng vợ là Nguyễn Thị Cúc và con trai Nguyễn Chí Vịnh năm 1961.

Điều quan trọng ấy là gì?

Từ Hội nghị quốc dân Tân Trào trở về, Nguyễn Chí Thanh nóng ruột muốn về thăm mẹ và Cúc, nhưng công việc liên miên níu giữ chân anh. Những lúc nhớ đến đồng ruộng, làng quê anh lại hỏi em họ là Nguyễn Húng, em ruột là Nguyễn Dĩnh và Trần Bá Song là những người lãnh đạo cuộc biểu tình ở Quảng Điền trước ngày tổng khởi nghĩa. Anh rất thú vị lắng nghe chuyện ngày 12 tháng 8 năm 1945 ấy, lúc nhiều tỉnh chưa động tĩnh gì, thì ở quê anh,

Trần Bá Song đã cùng chi bộ Đảng vận động quần chúng tổ chức một cuộc biểu tình tuần hành của toàn huyện nhằm biểu dương khí thế cách mạng và tập dượt lực lượng. Mười ngàn người tham gia tuần hành quanh huyện...

Đoàn tuần hành đi cả ngày, hô khẩu hiệu và hát hò rát cả cổ, nhưng không đói. Bởi vì, khi đoàn tuần hành kéo đến làng Nam Dương vừa giữa trưa, những người không mang theo cơm nước đang đói khát thì bà Trần Thị Sành - bà nội của Cúc và bác Ấm Hoàng - cha của Cúc đã lo cơm nước nuôi đoàn biểu tình. Ai đói bụng khát nước cứ vào cái sân gạch rộng mấy sào trước nhà bác Ấm Hoàng để ăn cơm, uống nước. Bà Sành đã huy động hàng chục bà con người làng mang hàng chục nồi đại, xoong chảo, bát đũa, rơm rạ đến thổi cơm. Lá khoai lang nấu canh với tép. Hàng chục vại mắm cơm, mắm cà bà muối để ăn quanh năm và bao nhiêu nếp gạo dự trữ bấy lâu nay đều đem ra hết, nấu hết, đãi hết. 

Nghe chuyện bữa cơm "đoàn kết" ấy, Nguyễn Chí Thanh rất xúc động, thầm biết ơn tấm lòng của nhân dân đối với cách mạng. Nhưng có điều nữa làm anh cảm động muốn khóc khi Dĩnh rỉ tai anh: "Mạ biết anh bận nhiều việc không về được, mạ muốn lên thăm anh để lo nấu nướng, làm bếp nuôi anh. Chị Cúc thì mong anh về dài cả cổ. Gặp em chị Cúc cứ thở dài hỏi: Sao chẳng thấy anh Vịnh về Nam Dương?".

Qua những câu chuyện của Quang, Húng và Dĩnh kể về Cúc, Thanh đã biết rõ lòng Cúc đối với anh nên nói với Dĩnh:

- Em về Nam Dương, tìm gặp chị Cúc và nói "khéo" với chị rằng, anh rất nhớ chị, nhưng vì bận nhiều công việc chưa về thăm được. Em chỉ chỗ ở của anh và nói anh mong chị lên Huế chơi...

Không bao lâu sau, vào một buổi chiều mặt trời vừa lặn sau núi Thiên Thai, người cận vệ vào báo cáo: "Có hai chị em o Cúc ở Nam Dương đến thăm", anh vội xếp tài liệu lại, hồi hộp ra cổng đón: "Ôi chao... Cúc", "Anh Vịnh!". Thanh chỉ vào bé gái đứng bên: "Ai đây?". Cúc cười mà mắt đỏ hoe, lí nhí nói: "Em gái của em đây. Tên là Hảo. Hắn vẫn còn nhớ anh đó!" Thanh xoa đầu Hảo, nói: "Anh nhớ ra rồi. Nhưng Dần chứ mô phải là Hảo. Mau nậy dữ hè?" Cúc vui mừng biết Thanh nhớ cả tên các em trong nhà, chị nói thêm: "Hắn sinh năm Dần, ở nhà thường gọi con Dần. Hảo sinh năm con cọp, cùng tuổi với anh đó...".

...Đêm ấy, Thanh dẫn Cúc đi dọc theo bờ sông. Biết bao nhiêu chuyện thương yêu, xa cách, nhớ nhung hai người đều nói cho nhau nghe. Thanh nhận ra rằng người con gái này tuy có rụt rè, ít lời nhưng nói năng chừng mực và chặt chẽ. Nghe Cúc nói ra những ý nghĩ thầm kín của mình, Thanh chợt giật thột, "sao lại giống như in những ý nghĩ lâu nay trong lòng mình đến thế.”

Vui duyên mới không quên nhiệm vụ

Từ sau lần gặp gỡ đó, hễ có lúc rảnh rỗi là hai người gặp nhau. Tình yêu của họ đã tới hồi chín muồi, sâu sắc. Nhưng công việc của Thanh vẫn ngổn ngang, ngập đầu. Ở Nam Dương, Quảng Điền, Cúc đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Công việc đoàn thể phụ nữ ở huyện lôi kéo chị bận rộn suốt ngày đêm. Tranh thủ những lúc về công tác phụ nữ ở Niêm Phò, Cúc ghé thăm hỏi động viên bác Bộ Hán - người mẹ chồng tương lai. Bà Thiển nhắn lên cho Thanh những lời khen ngợi Cúc, điều đó đã động viên và là niềm vui mới của Thanh.

Một điều vui sướng mới nữa là sau những lần gặp gỡ, tâm tình, Cúc đã đưa Thanh về Nam Dương giới thiệu với gia đình và thông báo tình cảm của hai người: Từ bà nội, bố mẹ

Cúc và bà con ai cũng ủng hộ tình yêu của họ và mong muốn cho Cúc Thanh sớm thành gia thất. Cũng chẳng bao lâu sau, vào chiều ngày 20 tháng 9 năm Bính Tuất, ngày giờ mà bà Thiển và ông bà Ấm Hoàng đã chọn để làm lễ thành hôn cho hai trẻ. Bốn giờ chiều lễ cưới được bắt đầu tại nhà bà nội Trần Thị Sành.

Đám cưới được tổ chức theo "đời sống mới", có chào cờ Tổ quốc và tuyên bố lý do. Rồi cũng có đãi tiệc nhưng là tiệc trà với bánh in ngũ sắc, bánh phu thê ... do bà nội và các o, các dì tự làm. Chàng rể nổi tiếng khí phách oai hùng, những việc làm và lời nói đã thu phục hàng triệu người nhưng đứng trước mặt hai họ đã hồi hộp lúng túng quên trước quên sau, và chỉ nói được một câu như bức khẩu hiệu xanh đỏ treo trên tường: "Vui duyên mới không quên nhiệm vụ", vẫn được bà con hoan nghênh nhiệt liệt. Vỗ tay to nhất và reo vui sướng nhất là những đồng chí, những người bạn đã từng ngồi tù với Nguyễn Chí Thanh ...

Những chặng đường khói lửa...

Sau lễ thành hôn, họ chỉ có đúng một đêm bên nhau, rồi Nguyễn Chí Thanh lại gấp rút lên đường. Con đường kháng chiến đã trước mặt, trên cương vị Ủy viên TW Đảng, Bí thư xứ ủy Trung kỳ, rồi Bí thư Bình Trị Thiên, ông phải lãnh đạo cả miền Trung, cả Bình Trị Thiên đứng lên chống Pháp. Còn vợ ông, Nguyễn Thị Cúc, cũng tham gia hoạt động kháng chiến, kinh qua những công tác đoàn thể, phụ nữ... cho đến lúc cùng chung trong một hàng quân với chồng. Từ một cô thôn nữ, bà trở thành một sĩ quan quân đội...

Ở mặt trận Huế những năm đầu kháng chiến, không ai không xúc động, và dân gian còn truyền tụng mãi về mối tình của ông và bà. Năm ấy mặt trận Huế vỡ, ông thì nghe bà qua sông bị pháo bắn chết, bà thì nghe ông bị giặc bắn chết rồi vứt xác xuống sông và đã trôi mất xác. Theo tập tục ở làng quê Thừa Thiên, ai chết đuối không tìm được xác, người nhà phải chạy dọc bờ sông, gọi tên người đó, thì xác mới nổi lên, thế là hai ông bà đã chạy dọc theo sông, nước mắt ướt đầm gương mặt, vừa chạy vừa gào tên nhau: "Thanh ơi!", "Cúc ơi!"Họ cứ chạy, vấp ngã, lại đứng lên chạy tiếp, gào tiếp... Cho đến lúc bỗng cả hai sững lại, cùng nghe tiếng gọi tên, rồi sững ra như bức tượng khi nhìn thấy nhau. Mừng quá, họ lội ào ra ôm chặt nhau giữa sông...

Những năm tháng xa cách, khi Nguyễn Chí Thanh là Bí thư Bình Trị Thiên, rồi kiêm nhiệm thêm cả Thanh Nghệ Tĩnh, dù công việc bận rộn, cực nhọc đến đâu, dù khói lửa đạn bom bao trùm thế nào, ông vẫn luôn đau đáu nhớ về vợ con cũng trên những chặng đường kháng chiến. Đứa con đầu lòng đẻ nơi chiến khu Hòa Mỹ không nuôi được, lòng người cha đau xót không nguôi, thương vợ thương con vô bờ bến, đến hàng chục năm sau ông còn lấy tên con Trường Sơn làm bút hiệu cho mình trên đường kháng chiến....

Khi sinh người con thứ hai, Nguyễn Thanh Hà, lúc này ông đã ra Việt Bắc được Bác Hồ cử làm Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội, ông đã rất quan tâm và rất chăm viết thư cho vợ với một tình cảm hết sức nồng nàn:

"Cúc này, anh mong thơ Cúc cứ hỏi Chắt, sao Cúc không gửi thơ? Chúng nó bảo có lẽ bị thất lạc. Anh không tin thế. Anh đã gửi ít nhất là 8 lá thư rồi. Lần này nhận được chỉ mấy hàng chữ của Cúc, đang đau mà hết. Nghĩ mãi, đêm nay không ngủ được... Nói thế nào cho hết tâm trạng của Thanh, cứ ngủ là mơ thấy Cúc và con… Cúc luôn gửi thơ cho anh là anh vui đấy nhé. Anh không giận Cúc đâu. Hôn Cúc và con".

Đọc những lá thư này cho đến hôm nay, tôi vẫn không cầm được nước mắt. Tôi cũng có bố mẹ đi kháng chiến, nên những lá thư như thế này luôn làm tôi thấu hiểu nó mang trong mỗi câu chữ ấy một trái tim, một tình yêu như thế nào? Nó là bản tình cao đẹp về nỗi nhớ, về tình yêu, tình vợ chồng, cha con... trong chiến tranh.

Bà Nguyệt Tú, phu nhân đồng chí Lê Quang Đạo, nguyên Chủ tịch Quốc hội kể: "Năm 1950, anh Nguyễn Chí Thanh được cử vào quân đội, làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Chị Nguyễn Thị Cúc cũng gia nhập quân đội. Hai anh chị sống trong một lán nhỏ trong rừng Việt Bắc. Hai cô con gái sau lần lượt ra đời.

Máy bay Pháp đánh phá nhiều nên các cháu thường phải xuống hầm. Cả gia đình anh hàng tháng sống dựa vào tiêu chuẩn gạo nhà nước cấp theo tiêu chuẩn cán bộ. Thấy các cháu yếu và anh cũng gầy gò, cơ quan mua cho một con bò cái để vắt sữa nuôi cháu và cũng để bồi dưỡng sức khỏe cho anh Thanh. Hôm nào đồng chí Chắt - cần vụ của anh ra suối câu được một ít cá mang về kho với ớt và măng, hôm ấy là bữa ăn tươi. Khi các cháu lớn, anh Thanh bảo các đồng chí phục vụ dắt bò sang trả cơ quan...

...Tháng 9/1964, Đại tướng, Ủy viên Bộ Chính trị, phó Bí thư quân ủy Trung ương Nguyễn Chí Thanh chính thức vào Nam với cương vị Chính ủy quân giải phóng miền Nam "Đi đi non nước chờ anh đó". Nhà thơ Tố Hữu đã viết như vậy về sứ mạng mới của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Từ thực tế chiến trường, ông đã đề ra một tư tưởng lớn, mang tầm thời đại, trở thành khẩu hiệu ý chí của toàn quân, toàn dân: "Không sợ Mỹ, dám đánh Mỹ, quyết thắng Mỹ!".

...Vì những lý do bí mật, từ đây đại tướng mang bí danh là Thao. "Anh Thao ơi! Cúc dặn nhé: Công việc làm ăn của anh nặng nhọc nhiều, anh cố bồi dưỡng để đủ sức khỏe làm ăn lâu dài anh nhé. Cúc chỉ mong anh đừng ốm đau, làm ăn ngày càng phát tài hơn nữa, thu nhập ngày càng cao hơn nữa, là Cúc và tất cả gia đình mừng rồi. Còn mọi việc ăn ở của gia đình đã có Cúc và bà con giúp đỡ, anh yên tâm. Lần nữa mong anh khỏe, nhớ anh nhiều. Anh năng viết thư cho Cúc với" - những lá thư tràn ngập tình yêu của vợ, của các con đã nâng bước vị Đại tướng rất nhiều nơi chiến trận.

Điều đặc biệt, dù là một sĩ quan quân đội, vợ một đại tướng nơi trận tiền, nhưng trong khó khăn chung của đất nước thời chiến, bà Cúc đã hết sức chịu thương chịu khó, thậm chí còn nhiều lúc nhịn ăn, mặc áo vá vai... để chăm lo cho mẹ chồng, đặc biệt là các con như đúng mong ước của chồng: "Các con phải lo học tập, lao động, tu dưỡng đạo đức cho ngoan"... Nhiều chi tiết về sự hy sinh của bà những ngày tháng ấy, giờ có nhắc lại thú thật cũng ít ai tin, vì làm sao một người vợ đại tướng lại có thể kham khổ, hy sinh như thế…

Đại tướng Nguyễn Chí Thanh ra đi đột ngột vào ngày 6 tháng 7/1967, đêm trước ngày ông dự định quay trở lại chiến trường miền Nam để chuẩn bị cho chiến dịch Mậu Thân 1968 mà Bác Hồ và Bộ chính trị TW Đảng có dự định cử ông là người tổng chỉ huy: "Nước non đau xót như lòng Mẹ/Mất một người con Nguyễn Chí Thanh" (Thơ Tố Hữu). Đất nước còn xót đau như vậy, huống chi là vợ, là con của ông. "Chỉ sau khi Ba mất, chúng tôi mới hiểu hết tình yêu của Mẹ dành cho Ba. Hơn 10 năm sau ngày đó, cho tới khi Mẹ cũng ra đi, Mẹ sống trong địa ngục vì nỗi nhớ Ba không gì bù đắp nổi. Mẹ sống vì chúng tôi nhưng tâm hồn Mẹ đã chết từ đêm ấy, ngày ba ra đi 6/7/1967" - Người con gái đầu của ông bà đã kể lại như vậy về tình yêu và cuộc đời của mẹ mình - Đại úy Nguyễn Thị Cúc, sau khi người chồng thân yêu đã không còn nữa... 

Bản tình ca không tắt

"Bản tình ca trên đường cách mạng", hay "Bản tình ca đẹp mãi trong khói lửa", chính là lời của mẹ tôi đã nói với tôi, khi nói về tình yêu của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và Đại úy Nguyễn Thị Cúc.

Mẹ tôi là nữ nghệ sĩ Tân Nhân, người cũng từng hát một bản tình ca nổi tiếng là Xa khơi. Bởi giọng hát đậm đà chất Trị Thiên, nên tiếng hát mẹ tôi được các bác Lê Duẩn, Tố Hữu, Nguyễn Chí Thanh yêu quý. Mẹ tôi hay được cùng nữ nghệ sĩ Hồ Mộ La, con gái nhà hoạt động cách mạng Hồ Học Lãm vào biểu diễn phục vụ các vị lãnh đạo. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và cô Nguyễn Thị Cúc rất quý mến mẹ tôi, coi mẹ tôi như em gái trong nhà...

Mẹ tôi cũng hết sức kính trọng và yêu quý hai bác. Đặc biệt về tình yêu tuyệt vời của hai bác. Người nghệ sĩ từng hát Xa khơi, một bản tình ca nổi tiếng, đã gọi tình yêu của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và vợ là Nguyễn Thị Cúc, là một trong những bản tình ca đẹp nhất trên con đường cách mạng, hay "Bản tình ca đẹp mãi trong khói lửa".

Tôi viết bài này, trước hết mang trái tim, mang tình cảm của mẹ tôi để tưởng nhớ và kính dâng lên Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và bà Nguyễn Thị Cúc nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Đại tướng. Có điều gì mà thế hệ tôi có thể nói thêm là, bản tình ca tuyệt vời của Đại tướng sẽ không bao giờ tắt, và còn đang được tiếp nối trong chính tình yêu của những người con đang tiếp bước theo con đường của cha mẹ…

Triệu Phong

Tin liên quan

Tin mới nhất