“Tôi nợ cuộc đời này cả những thương đau”
Chiến tranh đã lùi rất xa. Cuộc đời đã sang một trang khác. Con người cũng đã chuyển sang một trạng thái tinh thần khác. Nhưng dư ba của chiến tranh thì chưa hề ngưng trong mỗi tâm hồn. Cuộc sống mới với sự ồn ào, náo nhiệt cần có của dựng xây, kiến thiết, nhưng cũng cần có những giây phút bình yên như mặt biển “vùi sâu dưới đáy những gì đau thương” (“Biển hát chiều nay” - Hồng Đăng). Thơ Mai Thìn, trong tập “Tạ lỗi với mây xanh”*, là những nốt nhạc thầm lặng mà da diết, như tiếng vọng về của ký ức.
“tôi nợ cuộc đời này
cả
những thương đau”
(Tiếng vọng đầu)
Những câu thơ thể hiện tâm trạng của một người luôn mang trong mình những ký ức sâu nặng trước những hy sinh to lớn của biết bao người trong chiến tranh. Cuộc sống cần đi về phía trước, nhưng phía trước sẽ trở nên bất định, vì nếu không biết bắt đầu từ đâu thì cũng không biết sẽ đi đến đâu. Cho nên, với Mai Thìn, quá khứ chưa bao giờ “ngủ yên”.
Đó là khi anh bắt gặp những hàng phượng vỹ trên nghĩa trang Trường Sơn, ám tượng về sắc đỏ trước mặt đã đưa anh về “những bóng mắt người thân /đỏ/ nhòe/ cành lá” (Hoa phượng ở nghĩa trang Trường Sơn).
Khi anh ra Côn Đảo nơi “xương thịt con người/ tươi màu máu”, cảm giác “tôi nợ cuộc đời này” như thức dậy tận sâu trong anh “từng hạt cát/ vun đầy tội ác/ chạm nơi nào cũng thấy/ dường/ có lỗi” (Ở Côn Đảo).
Khi anh ngược đường lên sông Lô nhìn thấy hàng hoa gạo đỏ, nhớ những người “vớt từng xác gạo/ như vớt những hồn người/ đỏ thắm” (Ngược sông Lô).
Cho tới Vị Xuyên trong tâm hồn nhà thơ cảm giác xót xa, ân hận trước biên cương Tổ Quốc nơi biết bao chiến sỹ “mấy vạn đốt xương/ hóa đá dọc chiến hào” (Tạ lỗi với mây xanh).
Bìa tập thơ "Tạ lỗi với mây xanh"
Rồi trên quê hương anh sự chết chóc, hy sinh như vẫn còn kia “đồng làng đầy máu/ bên gốc trâm xưa/ nấm đất em nằm/ ướt đỏ/ máu của em tôi” (Tìm em).
Có lần, trong viện bảo tàng nhìn những ngôi “mộ thủy tinh” cất giữ quái thai chất độc chiến tranh, anh nhận thấy “triệu triệu người đến viếng/ tự thắp cho mình/ niềm kinh hãi xót xa” (Những ngôi mộ thủy tinh trong suốt).
Và chẳng ở đâu xa, trong ngôi nhà của mình, chiến tranh chất vấn anh hàng ngày “có người ba chết trận/ bao nhiêu năm/ không mồ” (Không mồ).
Và cũng chẳng phải ngày trước, cái chết tức tưởi hôm nay trong thùng xe đông lạnh trên đường đi tìm “miền đất hứa” của cô gái trẻ Trà My, sự hy sinh của những con người lao động vì núi lở, đất sạt tại Rào Trăng cũng làm anh buốt đau “cơn mưa đêm qua không có nước/ ròng ròng máu/ và nước mắt/ đổ xuống Rào Trăng” (Cơn mưa không có nước)…
Hình như ở đâu, đi đâu, tại mọi không gian và thời gian, Mai Thìn cũng cảm thấy “đất nước bao phen điêu linh/ đạn bom rồi giông bão nổi” trong ký ức; cũng ám thị một màu đỏ máu trong liên tưởng; cũng thảng thốt day dứt trong tâm thức về “bóng mắt” của người đã nằm xuống. Điều này tạo nên “sắc độ”, “mật độ” trong câu chữ của những thơ anh: “rưng rưng đỏ, đỏ nhòe cành lá, những tàn hoa/ nhuộm đỏ trời biên giới, đôi bờ/ hàng hàng gạo đỏ, máu thịt con người/ đâu cũng đỏ mà thôi, ròng ròng hoa đỏ, ròng ròng máu, niềm đau/ xuyên thấm vải thiêu/ chảy máu, đồng làng xưa đầy máu/ nấm đất em nằm/ ướt đỏ, mong thế giới này/ hết máu chảy, hoa rực rỡ/ mảng màu tươi thắm/ máu của bao người/ đổ xuống năm xưa”…
Nhưng không phải chỉ có một màu đỏ day dứt như thế, Mai Thìn có những câu thơ trẻ trung về một “ngày xưa” cứ tưởng thoáng qua mà giăng mắc cho đến tận mai sau:
“Ngày ấy ta đi
em còn tát nước bờ soi
tóc chớm hồng hai má
bao mùa cày chân rạ
đợi ta về
em thẩn thơ vành nón trắng”
(Cánh chuồn tuổi thơ)
Những câu thơ đầy cảm kích về khoảnh khắc không quên trong cuộc đời:
“hòa bình về
cờ hoa tở mở
nhà tôi vọng tiếng chuông
nghi ngút”
(Má tôi và những tiếng chuông)
Về một sắc vàng lo âu của buổi chiều tưởng tượng trên sân ga:
“chiều vàng
nắng tàn trên tóc mẹ
sóng bạc màu
nhẫn nại chờ mong”
(Chuyến tàu không bao giờ có)
Và niềm vui có thật nơi quê nhà giản dị mà bền chặt, yêu thương:
“đời rơm rạ còn cho hơi ấm
một sợi khói thôi
tuyệt tác bức tranh làng
tận hiến
xác thân tàn rữa
dồn yêu thương
rực rỡ mùa màng”
(Bạn với nhà nông)
Những bài thơ trong tập này hầu hết được viết từ khoảng dăm năm gần đây, tập trung nhiều vào chủ đề chiến tranh và sự hy sinh to lớn, cho thấy dù đã lùi xa nhưng chiến tranh vẫn còn nhức buốt trong trái tim người đang sống. Cảm hứng chủ đạo của tập thơ là nỗi xót xa với mất mát, nỗi ân hận của hậu thế, sự biết ơn với người ngã xuống, và những bài học về chiến tranh luôn phải ghi nhớ. Tất cả hình như đang đè nặng trên sứ mệnh của những câu thơ, nhắc nhở chúng ta rằng trên trái đất bé nhỏ này chưa bao giờ ngừng bom đạn, chết chóc:
“nghĩa trang Vị Xuyên
ầm ầm giông đổ
nén nhang muộn thắp lên
mưa ướt hết
xin thắp mấy dòng này
tạ lỗi với mây xanh”
(Tạ lỗi với mây xanh)
Tháng 6 năm 2024
* Tập thơ của Mai Thìn
Đọc "Hải Phòng - Những trầm tích thời gian" – Tập Khảo cứu của Tô Ngọc Thạch - NXB Hội Nhà văn, 2023.
Bình luận