Câu chuyện “nhận đường” của văn chương

Lịch sử văn học Việt Nam hiện đại từ 1945 đến nay, vấn đề “nhận đường” của nhà văn trong việc hiểu rõ trách nhiệm của người viết văn trước sự chuyển biến lớn lao của thời cuộc, gắn mình với vận mệnh của đất nước, hướng tới phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân đã trở nên vô cùng cốt yếu cho sáng tác, thúc đẩy sự ra đời những tác phẩm văn học giá trị ở những thời điểm bước ngoặt của lịch sử. Và việc nhận đường thường đi trước một bước theo hướng “không có chính trị thiếu văn hóa và không có văn hóa thiếu chính trị” (Nicolai Gutienko - ‘Một nền văn hóa biết xấu hổ’).

Thấm thoắt một thế kỷ văn chương đang đi qua. Nguyễn Đình Thi viết Nhận đường vào ngày 31/12/1947. Nhiều người cho là sớm. Nhưng tôi cho rằng việc nhận đường đi theo cách mạng đã sớm hơn rất nhiều. Ngay từ 1945, Nguyễn Tuân là một điển hình. Đến ngày 9/3/1945, Nhật nổ súng đảo chính Pháp. Ông Tuân không hay biết gì, còn đang nằm ở nhà cô đầu Chu Thị Năm. Ngày 19/8/1945, Việt Minh chiếm phủ thống sứ Bắc kỳ. Nguyễn Tuân trút bỏ áo dài khăn gõ, mặc vào quần soóc kaki vàng, chỉ là đi xem khởi nghĩa mà thôi. Bà Chu Thị Năm đã la lên: Ông định làm cách mạng đấy à! Đừng có mà đi theo họ. Nhưng Nguyễn Tuân cứ đi. Sau một thời gian ngắn, ông Nguyễn đã tham gia Nam tiến cùng nhiều nhà văn khác vào chiến trường khu 5 đánh Pháp, cản bước tiến của giặc xâm lược bằng ngọn bút viết văn của mình.

Nguyễn Tuân nhận đường rất sớm, cùng với hầu hết các nhà văn danh tiếng thời tiền chiến ngay từ buổi đầu đất nước đang trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc để đi theo cách mạng vào cuộc kháng chiến 9 năm đánh Pháp. Họ đã trở thành lực lượng chủ chốt sáng tác những tác phẩm văn học tiêu biểu nửa sau thế kỷ 20. Chỉ có một số ít lạc đường hoặc đi theo đường khác giống như Hoàng trong Đôi mắt của Nam Cao. Cuộc nhận đường của các nhà văn sau cách mạng tháng 8/1945 sao lại nhẹ nhàng thanh thản và dứt khoát đến thế.

Câu chuyện “nhận đường” của văn chương - 1

Các văn nghệ sĩ thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ phải sang, hàng trước: Nam Cao, Nguyên Hồng, Kim Lân, Nguyễn Đình Thi. Hàng sau: Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Trung Thông, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Học Phi, Nguyễn Đỗ Cung - Ảnh: Trần Văn Lưu

Xét theo quan điểm và góc nhìn của việc trao Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật vào các năm 1996, 2001, 2007 cho các văn nghệ sỹ đã tham gia nhân văn giai phẩm hồi nửa sau năm 1954 là một cách đánh giá tiến trình nhận đường của văn chương vốn không phải đơn giản và bất biến chút nào. Đó là một sự nhận đường đau đớn và thức tỉnh để cho sự chiêm nghiệm sâu sắc về mối quan hệ giữa chính trị và văn học. 

Bước vào năm 1979, tức là chỉ sau 4 năm đất nước thống nhất đến khoảng đầu một vài năm thập kỷ 80, xuất hiện những ý kiến về văn học minh họa, văn học phải đạo v.v... Đó cũng là một cách tiếp cận nhận đường vốn vô cùng đa diện của văn chương. Có lẽ Chế Lan Viên là người trăn trở nhiều nhất ở việc nhận đường cả một đời sáng tác. Với tất cả tiềm lực trí tuệ của mình, anh phản đối quan điểm văn học minh họa và phải đạo. Nhưng xuất phát từ tấm lòng đầy trắc ẩn của anh, có lúc anh quỳ xuống bên đường thật tội nghiệp xin đời mở lượng và “đừng đuổi thơ tôi vì một chút chiều tà ngả bóng”. Có lần anh đã viết về sự khác nhau rõ ràng giữa hai câu hỏi “Ta là ai và ta vì ai?”. Lại có lần anh viết về sự khác nhau của sông Hồng và sông Thương với nhiều hàm ý con đường của văn chương.

Ôi! sông Hồng, sông Hồng vạm vỡ

Có khi người thiếu đi một tiếng thương thầm

Hãy để dòng Thương thương hộ

Dù nửa dòng bên đục bên trong

Và hàng trăm bài thơ trong di cảo của Chế Lan Viên lại một lần nữa cất lên tiếng nói tha thiết của việc nhận đường.

Nếu như gần hết 100 năm của thế kỷ 20, các tướng lĩnh trải qua 4 cuộc chiến tranh dũng mãnh trên mình ngựa chiến và trên những trang văn thì thời kỳ đổi mới văn học cho Tướng về hưu để trải nghiệm cuộc đời thường. Người tướng già ấy không chấp nhận sự sa đọa của đạo đức xã hội, nên đã lại một lần nữa lên đường ra trận và hy sinh ở đó. Khoảng lặng sau chiến tranh đã được văn học nhìn nhận theo những chiều kích mới. Chiến tranh không chỉ là đường ra trận mùa này đẹp lắm mà là còn một nỗi buồn. Mảnh đất không chỉ lắm người mà còn nhiều ma. Bi kịch của người lính trận đã trở về và những số phận đắng cay của những người đàn bà ở hậu phương ngậm ngùi bên những bến nước không chồng v.v... Những thi sĩ của thời đổi mới đã bắt đầu nhóm Củi lửa cho Những thời đại thanh xuân. Những con người bước ra khỏi Ngôi nhà tuổi 17 để cùng đất nước nghĩ suy về Sự mất ngủ của lửa v.v... Họ đã làm nên diện mạo mới của nền văn học. Đó là kết quả và trăn trở lâu dài của việc nhận đường cả trên bình diện lý luận phê bình và sáng tác văn học.

Khái quát về lịch sử dân tộc và nền văn học của chúng ta thế kỷ 20 ở nét chủ đạo nhất, có lẽ thuộc về 4 câu thơ của Nguyễn Đình Thi trong bài Đất nước.

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Bây giờ lịch sử đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tại sao đây không phải là giai đoạn mới mà là kỷ nguyên mới? Bởi vì ở chỗ này nếu không vươn mình thì không còn bước lùi nào nữa. Nếu không vươn lên thì đương nhiên là chững lại lâu dài, điều mà các nhà kinh tế học gọi bằng cái tên hay ho là "sa vào bẫy thu nhập trung bình" giống như nhiều quốc gia khác.

Hãy đi trước cuộc đời như ngọn lửa. Nhà văn thường được xem là chim báo bão của thời đại. Họ thường đi trước một bước. Friedrich Nietzsche có lần nói: Chao ôi! có quá nhiều điều giao ngộ giữa trời và đất mà những thi sĩ là những kẻ độc nhất đã phải mơ màng đến và ông còn nói Đứng nhìn mình để có thể nhìn thấy tất cả.

Từ trong lịch sử văn học cho thấy, sau Cách mạng tháng 8/1945 vì sao văn học lại kịp thời và thanh thản ở việc nhận đường của các nhà văn? Bởi vì thời điểm đó, Việt Nam từ trong bóng đêm nô lệ bước ra ánh sáng ban ngày với gươm súng sáng lòa để giành và giữ nền độc lập sau 80 năm đô hộ của thực dân Pháp. Điều đó giúp cho nhà văn mau chóng nhìn nhận rõ ràng bước theo con đường ấy, dù biết còn nhiều gian khổ, khó khăn. Ở các giai đoạn sau này, họ đi trong ánh sáng ban ngày và nói như Nietzsche, họ được quyền nhìn vào bản thân mình nữa trong việc gắn bó văn học với vận mệnh của dân tộc và làm sâu sắc thêm nhận thức con đường đi tới của văn học. Điều khác Nietzsche là họ có thể nhìn thấy tất cả khi nhìn vào bản thân mình, gắn bó máu thịt cái ta với cái tôi.

Bước vào kỷ nguyên mới, vấn đề nhận diện đầy đủ những thách thức và thời cơ của việc vươn mình có ý nghĩa như là định hướng cho sự phát triển của văn học. Nhưng văn học vươn lên từ cái gì? Đương nhiên là từ truyền thống văn học Việt Nam được hun đúc qua nhiều thế kỷ.

Đó là nền văn học có sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa hiện thực sâu sắc để làm sáng tỏ con đường vững vàng đi lên của độc lập - tự do - hạnh phúc.

Đó là truyền thống văn học Việt Nam, đặc biệt là từ thế kỷ 18 đến nay lúc nào cũng quan tâm đến thân phận con người. Trong bối cảnh mới là một xã hội tự do mà đầy cam go khi vươn tới hạnh phúc đầy đủ của quyền con người. Mỗi bước đi của con người ở thời đại ngày nay đều gắn với sự giao thoa và nhập cuộc vô cùng mạnh mẽ với cộng đồng rộng hơn của thế giới nhiều thách thức và biến cố khó lường. Một thế giới đa cực của vô số nền văn hóa cạnh tranh và gây ảnh hưởng lẫn nhau. Những thôi thúc của khát vọng hòa bình. Những ám ảnh chiến tranh còn tiềm ẩn đâu đây? Bản sắc của con người Việt Nam và văn hóa Việt Nam thông qua và ghi dấu ấn cực kỳ mạnh mẽ vào sáng tạo của nền văn học. Những bài học của một thế kỷ nhận đường trong văn chương là lời nhắc nhở hữu ích cho mỗi một nhà văn khi đồng hành với thời đại bước vào kỷ nguyên mới.

Khuất Bình Nguyên

Nhà văn và nhân cách văn hóa
Nhà văn và nhân cách văn hóa

1. Đánh giá một con người bình thường, người ta cũng coi trọng nhân cách của người đó. Khi đã nói: "Anh ta không có nhân...

Tin liên quan

Tin mới nhất

Thông tin mới về việc tìm kiếm máy bay MH370

Thông tin mới về việc tìm kiếm máy bay MH370

Malaysia đã thống nhất các điều khoản với công ty Ocean Infinity của Mỹ để nối lại hoạt động tìm kiếm máy bay MH370, bao gồm khoản tiền công ty nhận được nếu tìm thấy xác máy bay.