Góc khuất Trường Sơn và B.Trọc "cặp song sinh"
Vừa qua nhà văn Phạm Việt Long đã cho ra mắt bạn đọc tập tuyện: “Góc khuất Trường Sơn”. Đây là tập truyện thứ 6 của ông, bên cạnh 2 tiểu thuyết, 1 ký sự và 6 công trình nghiên cứu đã xuất bản, với 6 giải thưởng cấp quốc gia cho 6 tác phẩm. Đặc biệt là tác phẩm “B. Trọc” đã được nhà xuất bản Thanh niên xuất bản năm 1999 và Nhà xuất bản Văn học tái bản lần thứ hai.
Cũng như những tác phẩm trước đó của ông, tập truyện "Góc khuất Trường Sơn" mang đậm tính nhân văn sâu sắc cũng như tính chiến đấu cao. Tại buổi ra mắt tập truyện ngày 21/11/2025, PGS-TS Nguyễn Thế Kỷ, Chủ tịch Hội đồng Lý luận văn học nghệ thuật Trung ương nhận xét: "Trong các tác phẩm trước đây của nhà văn Phạm Việt Long, ông thích bộ “B. trọc”, đây cũng là tác phẩm nói về chiến tranh. Văn Phạm Việt Long có chất lãng mạn, chất nhân văn. Anh là nhà nghiên cứu văn hóa nên viết văn trên nền trầm tích văn hóa".

Nhà văn Phạm Việt Long
Tôi hết sức đồng tình với ý kiến trên của nhà văn Nguyễn Thế Kỷ. Tuy nhiên, Nhà văn Phạm Việt Long không chỉ là nhà nghiên cứu văn hóa mà còn là nhà báo, người lính bước ra từ cuộc chiến tranh gian khổ ác liệt. Người lính Trường Sơn của những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước hết sức gian khổ và ác liệt mới có được những tác phẩm để đời. “B.trọc” không chỉ là một bản anh hùng ca dung dị, đồng thời cũng là bản tình ca đằm thắm… Trên những trang sách không chỉ có cuộc sống gian khổ, đói cơm, nhạt muối, cũng không chỉ có khí thế chiến đấu sôi nổi, hào hùng mà còn có tình yêu đằm thắm, tình yêu đồng đội, đồng bào, tình yêu lứa đôi. Bằng những chi tiết sinh động “B.Trọc” đã xây dựng một hình tượng “B. trọc” – Trí thức trẻ, giản dị và hào hùng và là những chuyện rất đời thường.
Thoạt đầu tôi có cảm nhận “Góc khuất Trường Sơn” như một "cặp song sinh" với “B.Trọc” bởi tính dung dị chân thật và nhiều câu chuyện cùng xẩy ra trong hoàn cảnh lịch sử là chiến trường Trường Sơn. Nhưng khi đọc hết tập truyện mới thấy được sự khác nhau về cách khai thác của nhà văn. Nếu như “B.trọc” như một tập nhật ký trong đó phản ánh chân thật cuộc sống chiến đấu của tác giả và những người đồng đội, sự "gian khổ, ác liệt, đói cơm, nhạt muối" và cả tình tình yêu quê hương gia đình bạn bè, tình yêu lứa đôi, trong đó có tình yêu trong trắng hồn nhiên của tác giả và Ngân… Thì trong “Góc khuất Trường Sơn” tác giả đã không kể lại những trận đánh một cách tỉ mỉ mà kể về những con người bình thường giản dị nhưng ở họ toát lên phẩm chất của người lính. Một cô giáo Lan (trong truyện “Nấm Đỏ”) sau khi can ngăn đồng đội không ăn nấm độc bất thành đã lấy cái chết của mình để cứu đồng đội. Một cô văn công khi thấy đồng đội mình trước lúc hy sinh mà chưa một lần "được nhìn thấy ngực của người con gái" (truyện “Hình ảnh cuối cùng”), cô đã tự cởi khuy áo ngực mình … và người chiến sỹ đã ra đi thanh thản với nụ cười trên môi còn đọng lại.
Tính nhân văn ở câu chuyện này được tác giả khai thác một cách độc đáo làm cho người đọc không thể không rơm rớm nước mắt trước một hành động cao đẹp nhưng cũng có phần "vượt rào" theo cách nghĩ của nhiều người đối với một cô gái. Nhưng trong chiến tranh ác liệt, trong hoàn cảnh đặc biệt, sự cảm thông chia sẻ gần như lấn át mọi chuẩn mực để dành sự yêu thương cho đồng đội. Là người lính, ngoài những phẩm chất dũng cảm hy sinh, họ cũng là những con người có những khát khao và cũng không thể tránh khỏi dục vọng.
Trong truyện "Dục vọng",khi một anh lính trẻ ở chiến trường đung đưa trên chiếc võng cạnh cô lính trẻ mới từ Hà Nội vào: "anh không ngủ được, trong anh một nhu cầu trỗi dậy-không phải bản năng thô bạo mà là sự khát khao được chạm vào một điiều sống động giữa giữa sự chết chóc bao quanh. Một hơi ấm. Một nhịp thở khác ngoài tiếng lệnh, tiếng đạn. Anh đấu tranh giằng xé. Những ý nghĩ chạy vòng trong đầu như những bóng ma Freud từng mô tả-bản năng bị đè nén, hình ảnh tuổi trẻ chưa dám gọi tên… anh lặng lẽ rời võng, lần theo lối mòn đầy lá rụng nhích từng bước về phía cô"… Và rồi cái bản năng con người trỗi dậy trong anh nhưng anh không thể vượt qua "làn ranh đỏ" bởi phần người trong anh vẫn được giữ vẹn nguyên. Tác giả đã khéo léo khai thác nội tâm của nhân vật để nói lên một thực tế không thể phủ nhận nhưng vẫn tìm được lối thoát cho nhân vật không biến họ thành một kẻ thô bạo, có lẽ đấy chính là thành công của tác giả.
Trong “Góc khuất Trường Sơn” có sự khác biệt nhiều với “B.Trọc”, bởi những sự thật trần trụi và cả những thói hư tật xấu của người lính cũng được tác giả mô tả một cách tỉ mỉ và đó cũng chính là cái chân thật. Trong truyện "Giấy ra Bắc", hình ảnh của Thuyết sống ích kỷ nhỏ nhoi lạc lỏng ở chiến trường khi có cái gương soi cũng dùng riêng một mình, một gói ruốc bông cũng cất kỹ đáy ba lô và chỉ để mình dùng khi đói, chiếc nhẫn vàng khư khư đeo tay… rồi vin vào bẹnh tật mà viết đơn xin ra Bắc với một suy nghĩ rất ích kỷ và đố kỵ "phải biết đi trước một bước". Vẫn biết rằng trong hoàn cảnh nào cũng có người tốt, kẻ xấu nhưng sự ích kỷ nhỏ nhen của Thuyết trong hoàn cảnh này là không thể chấp nhận được.

Tác phẩm “B.Trọc” và “Góc khuất trường Sơn”.
Điểm tương đồng giữa “B. Trọc” và “Góc khuất Trường Sơn” là cả hai đều mang tính chân thực, sống động, như những bản anh hùng ca. Trong truyện “Đụng độ”, tác giả đã khắc họa một trận chiến quyết liệt giữa ta và nhóm biệt kích Mỹ, vừa dữ dội vừa thấm đẫm tính nhân văn. Chính điều này khiến tôi dễ lầm tưởng hai tác phẩm như “một cặp song sinh”. Bên cạnh đó, truyện “Đói” trong “Góc khuất Trường Sơn” với nỗi đói trong “B. Trọc” gần như hòa quyện, tạo cảm giác đồng điệu sâu sắc.
Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản là “Góc khuất Trường Sơn” tập trung phản ánh những câu chuyện rất đời thường, nơi cái tốt và cái xấu cùng tồn tại, không ca ngợi một chiều. Vì thế, tác giả gọi đó là những “góc khuất” – những câu chuyện ít được nhắc đến, thậm chí nhiều người không muốn hoặc không dám đề cập.
Với vốn sống phong phú ở chiến trường Trường Sơn trong nhiều năm, nhà văn Phạm Việt Long như đã "mở hết hầu bao về tư liệu" cho hai tác phẩm “B. Trọc” và “Góc khuất Trường Sơn” làm cho độc giả hiểu hết từng "chân tơ, kẻ tóc" cuộc sống cửa những người lính ở Trường Sơn. Nếu như “B. Trọc” là điểm khởi đầu của những câu chuyện ở Trường Sơn thì “Góc khuất Trường Sơn” đã bồi đắp tất cả để tạo nên một bản nhạc hoàn hảo từ những nốt lặng trầm hùng hay những giai điệu thiết tha hoành tráng.
Ở phần “trăn trở thời hậu chiến”, “Góc khuất Trường Sơn” mở thêm một lớp nghĩa mới: chiến tranh không chỉ để lại những mất mát trên chiến trường mà còn để lại những vết rạn trong cấu trúc xã hội và tâm hồn dân tộc. Những nhân vật như chị Năm – mang di chứng chất độc da cam, lầm lũi nuôi con trong căn nhà trống hoác – hay những phụ nữ “xin con” để níu sự sống giữa những làng quê thiếu vắng đàn ông, cho thấy nỗi đau hậu chiến vừa hữu hình vừa thầm lặng. Đó là những vết thương mà bom đạn đã tạo nên, nhưng hòa bình phải chậm rãi trả lời.
Nhưng điều đáng quý là nhà văn không dừng ở cảm thương; ông nhìn thấy những mối dây nhân bản đang khâu lại cộng đồng. Những “đứa con xin” – sinh ra từ những cuộc gặp gỡ chớp nhoáng giữa người các miền, thậm chí giữa những người từng ở hai bên chiến tuyến – đã trở thành biểu tượng của sự xóa nhòa ranh giới, của nhu cầu làm người vượt lên mọi khác biệt. Chính quyền địa phương chấp nhận, dân làng cưu mang, và những đứa trẻ ấy lớn lên thành người tử tế, biết dựng lại quê hương.
Ở tầng sâu hơn, “Góc khuất Trường Sơn” gợi mở một tư tưởng lớn: hòa hợp dân tộc không đến từ những diễn ngôn lớn lao, mà từ những cử chỉ đời thường – hai bà mẹ có con ở hai chiến tuyến về ở chung trong căn nhà tình nghĩa, một bài hát trước 75 bị cấm rồi được phép hát lại, hài cốt phi công Mỹ được tìm thấy nhờ sự giúp đỡ của người dân... Những câu chuyện nhỏ trong tập truyện chính là chứng từ cho một chân lý giản dị: dân tộc chỉ thật sự đứng lên khi những người từng đối đầu biết nhận nhau làm người cùng chung một vận mệnh.
Đọc “Góc khuất Trường Sơn” ta càng trân quý hơn những con người một thời sống oanh liệt trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại và những giá trị của độc lập tự do những ngày sống hòa bình hôm nay. Cảm ơn Nhà văn Phạm Việt Long, người lính Trường Sơn luôn mang đến cho độc giả những cảm xúc mới mẻ những tư liệu quý giá để thế hệ sau trân quý và gìn giữ.

Trong lịch sử văn học thế giới, hiếm có hai tiểu thuyết nào - cách nhau gần một thế kỷ, từ hai nền văn hóa khác biệt...
Bình luận