Lời đáp từ ba miền quê hương
(Đọc “Tiếng vọng ký ức”, tập tản văn, bút ký của Lê Xuân, Nxb Quân đội nhân dân, 2023)
Nhà văn Lê Xuân tham gia nhiều Hội; ở Trung ương là Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Ngôn ngữ học, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Hội Văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam; ở địa phương là Hội Nhà văn TP Cần Thơ, Hội Văn nghệ dân gian Cần Thơ. Hiện nay ông là Chi hội phó Chi hội Nhà văn Việt Nam TP Cần Thơ. Nhà văn Lê Xuân viết phê bình là chính, có thêm văn xuôi, vì vậy mà tư cách nhà văn của ông tham gia vào Hội nhà văn Việt Nam, vào hội Nhà văn TP Cần Thơ vẫn nổi bật, còn các hoạt động khác về ngôn ngữ, dân gian, văn học các dân tộc thiểu số, ông cũng có sách riêng, có đóng góp quan trọng.
Nhà văn Lê Xuân
Lê Xuân đã xuất bản 11 đầu sách với nhiều thể loại. Tiếng vọng ký ức (2023, tản văn - bút ký) là quyển sách thứ hai về văn xuôi của Lê Xuân, sau quyển Tây Bắc yêu thương (2016, truyện - ký). Ông cũng có ba quyển thơ, bình thơ. Như vậy, sáng tác văn chương là một hoạt động được nhà phê bình chuyên nghiệp Lê Xuân chú ý ở một mức độ đáng kể. Vốn là nhà giáo dạy Văn, Lê Xuân say mê giảng dạy, bình văn, tác giả trở thành nhà phê bình là lẽ thuận, ông lại chú ý đến yếu tố ngôn ngữ, yếu tố dân gian là đương nhiên. Nhà văn Lê Xuân giàu xúc cảm yêu thương đối với quê hương ba miền đất nước: Thanh Hóa, Tây Bắc (cụ thể là Nghĩa Lộ trước kia, nay là Yên Bái) và Cần Thơ hiện nay.
Độc giả thấy hình ảnh cái tôi trữ tình của tác giả thuộc về ba miền quê hương nói trên đã trải ra, thấm vào các tản văn, bút ký viết về tuổi thơ - tuổi trẻ của tác giả ở cố hương Xứ Thanh và một góc miền Tây Bắc; viết về thầy giáo và nhà trường; về du lịch; về cựu chiến binh - thương binh; về chân dung văn nghệ sĩ; về doanh nhân làm kinh tế…
Những trang Sông Chu ngày ấy... bây giờ vừa là tản văn, vừa là hồi ký tư liệu, lại cũng là bút ký viết hay và kỹ càng về sông Chu (cùng sông Mã, là hai con sông lớn của Thanh Hóa) và lưu vực của nó. Sông Chu chảy qua thị trấn Thọ Xuân, nơi có trường Cấp 3 mà các học sinh Lê Xuân Bột (Lê Xuân), Nguyễn Văn Lưu, Phạm Đình Lợi, Phạm Đình Ân... sau này đã thành danh về văn chương, báo chí. Sông Chu đã đi vào thơ ca, hơi tiếc là có mấy câu trong bài Sông Chu tuổi thơ của một tác giả thân thiết với Lê Xuân, được nhiều bạn đọc nhớ, đã không kịp đưa vào bài ký công phu này: “Một châu thổ nhỏ cũng phù sa/ Đất bãi ngoài sông nới mãi ra/ Bến trăng mỏng mảnh mình em tắm/ Nước giỡn vai thon, ngực nõn nà” (thơ Phạm Đình Ân). Huyện Thọ Xuân, nơi có di tích - danh thắng Lam Sơn, có đập Bái Thượng, đã được Lê Xuân đề cập đến bằng tấm lòng trân quý, mến thương.
Cùng Sông Chu ngày ấy… bây giờ, chùm bài về bản quán - gia đình ở Xứ Thanh gồm có: Rau má quê choa, Diều sáo quê tôi, Sông Chu ngày ấy... bây giờ có giá trị văn chương và tư liệu nhất định. Người Xứ Thanh (và cả nơi khác có thể), rất thú vị khi đọc đoạn văn này: “Từ xưa các cụ đã dặn con cháu: Đói thì ăn rau má, đừng ăn quấy ăn quá mà chết. Tôi nhớ mãi những ngày đói quay đói quắt khi lên năm, lên bảy đã theo mẹ, theo chị ra đồng, men theo những bờ vùng, bờ thửa, tìm kiếm những cọng rau má và mỗi khi gặp được một dây rau má tôi lại reo lên vui sướng (...)
Rau má có nhiều loại: rau má mỡ lá bóng mượt xanh nhạt; ráu má ma, rau má chuột lá nhỏ vị đắng; rau má cơm, rau má xanh thân mập lá to như đồng xu thường mọc từng cụm riêng lẻ. Gần đây ta còn nhập giống rau má Thái Lan lá to tròn bóng mượt, sống khỏe, nhưng mùi vị hơi hăng hắc, không ngon bằng rau má quê nhà. Dù là loại rau má nào, chúng đều là bạn của người nông dân nghèo, giúp họ vượt qua cơn đói kém, khi giáp hạt, lúc mùa màng thất bát. Nhờ có rau má với củ chuối và đu đủ xanh mà biết bao người dân quê tôi qua được nạn đói lịch sử năm Ất Dậu (1945)”.
Ở tản văn Diều sáo quê tôi, Lê Xuân trình bày tỉ mỉ về cách làm diều sáo đến thú chơi thả diều. Tác giả tâm sự: “Những con diều sáo quê tôi cứ ngân vang và hiện lên trong tâm tưởng. Dù xa quê hương nửa thế kỷ, nhưng mỗi lần bắt gặp một đám trẻ con thả diều giấy trên đường phố hay cánh đồng, lòng tôi lại xốn xang nhớ về quê nhà và văng vẳng bên tai tiếng sáo diều vi vu trầm bổng trên bầu trời xanh quê hương”.
Tản văn - bút ký Sông Chu ngày ấy... bây giờ truyền đến tôi một xúc cảm tâm hồn văn chương mạnh mẽ và một nỗi niềm quê nhà tuổi thơ sâu sắc. Hai chúng tôi cùng học cấp III bên cạnh sông Chu. Những địa danh khác như Cửa Đặt, Thường Xuân, Ngọc Lặc v.v. đã một thời gắn bó, khiến chúng tôi nhớ thương mãi mãi.
Những trang viết về người mẹ, người cha, về hoàn cảnh gia đình ngang trái thời thơ ấu của Lê Xuân đã được tác giả tái hiện một cách xúc động. Mẹ ông vốn là cô gái nông thôn xinh đẹp, có mái tóc chấm gót chân, đôi mắt tinh anh, dáng đi nhanh nhẹn, là con một vị Lý trưởng ở làng Rạch. Còn bố ông là con đầu lòng của một vị quan Tam phẩm triều đình Huế, ở làng Hón. Hai làng sát cạnh nhau, ven bờ sông Chu. Mẹ về làm dâu từ năm nào, Lê Xuân không nhớ rõ. Bố thì đi làm cách mạng theo phong trào Việt Minh từ năm 1941. Thế là, tất cả việc nhà cửa, đồng áng, nuôi dạy con đều do mẹ chăm lo. Cả bên nội và bên ngoại trước năm 1945 đều là gia đình khá giả, đều "môn đăng hậu đối".
Cả ông nội và ông ngoại đều là những người văn - võ song toàn. Mẹ Lê Xuân nhớ rất nhiều ca dao, chuyện cổ tích và thuộc nhiều truyện Nôm, thuộc hầu hết Truyện Kiều. Một lần vào Cần Thơ thăm gia đình con trai, bà bị bệnh rồi qua đời. Sau mười lăm năm yên nghỉ trên đất Cần Thơ, năm 2000 nhà văn rước hài cốt mẹ về quê. Bài thơ ghi vội khi ông ngồi tàu nhanh rước hài cốt mẹ từ Tp Hồ Chí Minh ra Thanh Hoá thật xúc động: “Mười lăm năm trước Mẹ vô/ Thăm cháu con ở Cần Thơ ít ngày/ Ai ngờ trời trở gió lay/ Tuổi hạc cao, lá cải bay về trời/ Xa quê mười mấy năm rồi/ Hôm nay con rước mẹ ngồi tàu nhanh/ Về làng Hón của xứ Thanh/ Để cho Cha-Mẹ, cây cành liền hoa/ Dâu, con, rể, khách đầy nhà/ Đến thăm hỏi mẹ như là hôm đi/ Cầu xin Đức Phật từ bi/ Mẹ lên tiên cảnh, con về Cần Thơ”.
Cha Lê Xuân sinh ra và lớn lên vào những năm đầu của thế kỷ XX. Đến đời cha Lê Xuân đã là đời thứ năm "hiền tổ khảo" về "tập ấm", kể từ khi ông tổ là Thừa tướng Vũ Xuân Thọ, Vĩnh Lộc đại phu, là con rể công hầu Lê Văn Linh - một trong tứ trụ triều đình Lê Thái Tổ. Sau chiến thắng quân Minh, dòng họ nhà này được đổi từ họ Vũ sang họ Lê, để ghi nhớ công ơn các bá tánh có công phò Lê diệt Minh. Người cha yêu kính của nhà văn tham gia Cách mạng, vào Đảng năm 1941. Cụ từng đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban Tuyên huấn huyện Thọ Xuân. Ông có nghề làm thuốc, nổi tiếng cả huyện và vùng lân cận. Mọi người truyền tin cho nhau về ông lang Hanh có tài, có đức. Năm 1955, cả gia đình bên nội, ngoại đều bị quy là địa chủ. Đến đầu năm 1956, Nhà nước sửa sai, ông lang Hanh được ra tù và tiếp tục nghề thuốc.
Những tản văn, bút ký trong Tiếng vọng ký ức còn nói đến những năm tháng tác giả dạy học ở Tây Bắc và truyện ký hôm nay viết về thành phố Cần Thơ cùng các tỉnh miền Tây Nam Bộ có những trang viết về du lịch, về người tốt việc tốt, về doanh nhân thành đạt, về các nhà thơ nhà văn đam mê văn chương và kinh doanh giỏi… Tất cả đều là những sáng tác đầy tâm huyết, giàu ý thức trải nghiệm.
Bìa tác phẩm "Tiếng vọng ký ức"
Với Tiếng vọng ký ức, nhà văn Lê Xuân đã gửi đến bạn đọc dư âm một lời đáp đầy tình nghĩa từ ba miền quê hương Thanh Hóa, Nghĩa Lộ, Cần Thơ cùng những nhân vật thân thương của tác giả. Tiếng vọng ấy vang mãi mãi trong hành trang cuộc đời của một con người đã đặt chân lên hầu hết các vùng miền Tổ quốc, đã trải qua bao gian khổ của tuổi thơ cơ cực và những năm tháng thời bao cấp trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Và rất mừng, ông đã “thành danh” ở xứ Tây Đô “gạo trắng nước trong” khi tuổi đã “thất thập cổ lai hy”.
Để khép lại bài viết này, xin mời bạn đọc tiếp cận bài thơ Tự bạch của nhà văn Lê Xuân (trích 4 khổ đầu của bài thơ 8 khổ và hai câu lẻ):
Là người dòng họ Lê Xuân
Tháng tư, ngày tám, Giáp Thân chào đời*
Hắn là “con Phật cháu Trời”
Rời làng, xa xứ lần hồi kiếm ăn.
Dạy học, làm báo, viết văn
Hết lên miền núi, về thăm phố phường
Tính thì dở dở, ương ương
Lòng như ruột ngựa hay vương vấn tình.
Vợ luôn luôn sống hết mình
Đảm đang công việc, gia đình yên vui
Bốn con thành đạt cả rồi
Mà đời hắn vẫn ngược xuôi xa làng.
Sáng cà phê, tối ca vang
Rượu bia vài ngụm tán tràn cung mây
Bạn bè giao tiếp đó đây
Đứa còn đứa mất, tối ngày thăm nhau.
--------------------------------------
* Lê Xuân sinh ngày 8-4 âm lịch, ngày Phật Đản, Giáp Thân - 1944

(Đọc "Núm Sống" - Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2023)
Bình luận