Những vần thơ chứa chan tình đồng đội trong thơ Vũ Duy Hoà

Bẵng đi vài ba năm, một sáng đầu hè nhà thơ Vũ Duy Hòa đem tặng tôi tập “Trên những chặng đường” (bút ký), rồi một chiều chớm thu anh lại tặng tôi tập “Chiều nghiêng” (thơ). Thì ra vài ba năm qua là thời gian “thai nghén” hai đứa con tinh thần và “sinh hạ” cùng năm 2023. Không biết “Chiều nghiêng” đã là “út” chưa, bởi chưa đầy mười năm nghỉ chế độ, anh đã cho ra mắt bạn đọc 15 tập sách cả văn, thơ, truyện ngắn và bút ký.

Đọc mười mấy tập văn, thơ của Vũ Duy Hòa, tôi ngẫm thấy anh có nhiều tố chất, giàu tiềm năng nghe, nhìn, quan sát tìm cảm hứng và thơ Vũ Duy Hòa đã để lại dấu ấn đậm sâu trong trái tim người đọc. Chính những tố chất ấy là cơ sở để anh cày cuốc, gieo cấy, bón chăm, vun xới những thửa ruộng trên cánh đồng chữ nghĩa và hôm nay được gặt hái thành quả lao động, thật đáng nể trọng.

Có một điều thú vị, khi còn trên ghế nhà trường chưa kịp thi tốt nghiệp phổ thông, anh tình nguyện lên đường nhập ngũ, cùng đồng đội chiến đấu trên chiến trường miền Nam, bốn năm sau, ngày 30/4/1975 anh có mặt trong đoàn quân tiến vào Sài Gòn giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Anh đã trở thành người Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trước giờ vào chiến dịch lịch sử mang tên Bác kính yêu.

Những vần thơ chứa chan tình đồng đội trong thơ Vũ Duy Hoà - 1

Tác giả bài viết và nhà thơ Vũ Duy Hòa.

Vũ Duy Hòa sinh ra trong một gia đình mà bố anh là bộ đội:

“Từ cùng khổ với tầm vông giáo mác

Với công nông đứng dậy cướp chính quyền 

Từ buổi ấy bố thành người của Đảng

Khắc trong tim chân lý mãi sáng ngời 

Và:

“Hết chiến tranh bố trở về với mẹ

Gia tài mang theo là chiếc huân chương

Đôi dép lốp qua mấy mùa kháng chiến

Giao cho con đi tiếp những chặng đường”

(Bố tôi)

Khi lập gia đình thì vợ anh cũng là bộ đội:

“Ngày chiến thắng tôi trở về quê mẹ

Chợt gặp em màu áo lính năm nào

Chẳng nói gì chỉ thấy lòng xao xuyến

Để nhớ thương cô bộ đội vô cùng”

(Vợ tôi)

Còn mẹ anh dù không là người lính nhưng suốt cuộc đời tận tụy lo cho chồng con, đảm đang công việc để chồng con yên tâm chiến đấu ngoài tiền tuyến:

“Bố và con thay nhau đi chiến đấu

Hết nuôi con mẹ lại chăm chồng

Bao gian khổ mẹ một mình gánh vác

Suốt cuộc đời cặm cụi với chồng con”

(Mẹ tôi)

Có một hôm chúng tôi đến tặng anh tập thơ mới, thân mẫu của anh cùng ngồi tiếp chuyện, ở tuổi 94 bà còn minh mẫn lắm, đây cũng là “nguyên mẫu” của nhà thơ Vũ Duy Hòa khi anh viết về mẹ.

Mặc dù đã xa quân ngũ từ lâu, và đã ở độ tuổi “xưa nay hiếm” anh vẫn đau đáu nhớ về đồng đội, từ khi còn nhịp bước hành quân, cho đến khi chuyển công tác mới và nghỉ chế độ. Gần chục năm qua anh vẫn không quên nghĩa tình đồng đội.

Đọc gần ngàn bài thơ của anh, tính từ “nhớ” được nhắc đi nhắc lại khi là tựa đề của một tập thơ, khi là tên của một bài thơ như: Nỗi nhớ, Chiều nhớ, Giọt nhớ, Nhung nhớ, Thương nhớ… Chắc chắn không dưới ngàn từ nhớ. Riêng tập Chiều nghiêng, trong 179 bài thơ anh đã dùng 151 lần (có thể hơn) anh đưa vào đúng lúc, đúng chỗ. Khi còn trong quân ngũ thì nhớ quê hương, nhớ cha mẹ, bạn bè, khi xa quân ngũ thì nhớ đồng đội, nhớ chiến trường xưa, nhớ những nơi đóng quân với tình quân dân gắn bó…

Đọc Chiều nghiêng, của Vũ Duy Hòa ta bắt gặp những vần thơ chứa chan tình đồng đội. Vừa học xong cấp ba, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc Vũ Duy Hòa đã tham gia quân ngũ, từ đó tình đồng đội thấm đẫm trong trái tim của người lính trẻ đầy háo hức từ những buổi ban đầu:

“Thuở chiến tranh chúng tôi đến nơi này

Lối mòn nhỏ loanh quanh vào xóm núi

Cao Răm nghèo nhưng tình thương rộng mở

Đón bộ đội về như gặp người thân”

(Cao Răm)

Sau thời gian luyện tập trên thao trường nắng lửa anh cùng đồng đội lên đường đi chiến đấu ở chiến trường miền Nam, hành quân qua dãy Trường Sơn:

“Đêm Trường Sơn gió đại ngàn hối hả

Những đoàn quân vượt bom đạn lên đường

Cánh võng đưa vọng lời ru của mẹ

Nâng bước quân hành với trọn niềm tin”

(Chiều buông nỗi nhớ)

Tình yêu thương và nỗi nhớ đồng đội luôn day dứt trong anh, nhất là những người đã ngã xuống trước giờ toàn thắng:

“Ngày chiến thắng vẫn có người ngã xuống

Chưa kịp nhìn cờ đỏ rợp thành Đô

Anh ở đâu tận Bưng biền xa thẳm

Rừng đước nào đang che chở các canh?”

Dù đang sống trong hòa bình trên cương vị công tác mới nhưng lúc nào Vũ Duy Hòa cũng nhớ về chiến trường xưa:

“Lâu lắm rồi chưa trở lại Miền Đông

Nơi một thuở chiến trường đầy khói lửa

Đồng đội ơi như vẫn còn đâu đó

Mũ tai bèo thấp thoáng giữa rừng xanh”

Nỗi nhớ của anh dành phần nhiều cho đồng đội là các chiến sỹ thông tin đã một thời cùng sẻ chia những gian nan thử thách:

“Chiến trường xa anh nhớ về nơi ấy

Cô báo vụ viên thao thức thâu đêm

Ta gặp nhau giữa bao la vũ trụ

Và những lá thư đẫm máu giao liên”

(Duyên phận)

Tình đất, tình người của Vũ Duy Hòa còn thấm đẫm trong bài Hương quế:

“Anh lên đường vào quê em đánh giặc

Gác lại bút nghiên vừa tuổi hai mươi

Đêm chống càn trong khói bom khét lẹt

Hương quế ngọt ngào quấn quýt bên em”

Có cô gái Quảng Nam kết nghĩa vẫn ước mơ đến ngày chiến thắng để được về quê người con trai thăm mẹ anh, thăm núi Ngọc, Hàm Rồng.

Nhưng rồi:

“Chiều nghĩa trang hương khói bay nghi ngút

Anh ở đâu trong lòng đất âm thầm

Em vẫn đợi để được về nơi ấy

Quê hương anh ơi Thanh Hóa anh hùng”

(Hương Quế)

Một tình yêu đẹp, thánh thiện, đẹp hơn nữa là tình yêu đôi lứa hòa vào tình yêu Tổ quốc, thật đáng trân quý và tự hào đó là Tuổi trẻ Việt Nam.

Dù đã về đất liền, nhưng những tiếng sóng ập vào bờ đá, vỗ vào mạn tàu khi anh đang phục vụ trên đảo Trường Sa vẫn đêm đêm vang vọng, thao thức, trong nỗi nhớ của anh:

“Đêm không ngủ thao thức nghe sóng vỗ

Nhớ đảo xa đồng đội gọi tên mình

Nhớ buổi chia tay mong ngày gặp lại

Nhớ con tàu trên quân cảng ngày nao”

(Ký ức Cam Ranh)

Với những đồng đội trở về sau chiến tranh trên người mang đầy thương tích, những bệnh binh luôn đau đớn vì bệnh tật triền miên, trong thơ Vũ Duy Hòa ta vẫn thấy các anh “Tàn nhưng không phế”:

“Với chiếc nạng dấu chân anh khắp nẻo

Gieo vần thơ cho con trẻ học bài

Đêm thức giấc bóng mẹ già nhắn nhủ

Nhớ có ngày con về lại chiến khu”

(Những bà mẹ)

Chúng ta đang sống trong môi trường hòa bình, nhưng đâu đó vẫn còn tiềm ẩn những nguy cơ, hiểm họa: Chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh. Vì thế những người lính - Anh bộ đội Cụ Hồ - Vì nhân dân phục vụ vẫn sẵn sàng cho những cuộc hành quân. Như trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 thì:

“Bây giờ dịch covid tràn lan

Những đoàn quân lại hối hả lên đường

Nào chị ,nào anh, bộ đội, công an

     Cùng ngành y lên tuyến đầu chống dịch

      ...                                                                                                                           

Cuộc hành quân của triệu người như một

Để một ngày đất nước lại bình yên”

(Những cuộc hành quân)

Tuy sức khỏe giảm sút, bệnh tật liên miên, nhưng hễ có dịp là nhà thơ Vũ Duy Hòa lại lên đường đi thăm những vùng miền anh đã đến, thăm nơi đóng quân, huấn luyện vì ở đó đã ghi lại những dấu ấn sâu sắc về tình quân dân gắn bó, để lại niềm thương nỗi nhớ khôn nguôi:

“Năm tháng trôi qua mỗi người mỗi ngả

           Tóc pha sương mới tìm về chốn cũ

           Nơi kỷ niệm đã trở thành nỗi nhớ

Nhớ trung đoàn nhớ đồng đội ngày xưa”

(Về lại trung đoàn)

Trở lại Sài Gòn – Chẳng thể nào quên có một thời anh đã hiến dâng một phần tuổi trẻ ở chiến trường Miền Đông rồi cùng đồng đội chứng kiến giây phút chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, non sông thu về một mối, anh thấy lòng nhẹ nhàng, thanh thản biết bao khi viết bài thơ Nhớ Sài Gòn.

Thơ Vũ Duy Hòa thường thiên về diễn tả cụ thể rất chân thật, thật đến nao lòng:

Em đừng đến để lòng anh xao xuyến

Em đừng đi cho đến hết chân trời

Để mãi mãi đợi chờ nghe em hát

Ví giặm ơi: Em ở lại đừng về”

(Ví giặm ơi)

                       Và:

Trên rừng xuống thấy cái gì cũng đẹp

Bộ đội nghèo nên chỉ ngắm chẳng mua

Cô chủ quán cứ lặng nhìn theo mãi

Thương quá trời ơi chú giải phóng quân”

(Phố biển ngày về)

Còn rất nhiều bài thơ, khổ thơ thật thà và gần gũi như thế, chính vì vậy thơ Vũ Duy Hòa dễ đi vào lòng người đọc.

Sắp đến ngày 22/12 - ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, cảm ơn nhà thơ Vũ Duy Hòa, những vần thơ chứa chan tình đồng đội của anh, đã đem đến cho tôi và bạn đọc nhiều cảm xúc sâu sắc, dù đã thấy, đã hiểu, lại càng thấy, càng hiểu nhiều hơn về sự cống hiến, hy sinh vô cùng to lớn của các thế hệ chiến sĩ bộ đội Cụ Hồ đã “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh…”.

Từ đó không bao giờ quên các chiến sĩ mang trên mình màu xanh áo lính đã một thời chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc, càng không thể nào quên công ơn các anh hùng liệt sĩ, các thương bệnh binh đã cống hiến một phần xương máu, tuổi trẻ của mình mang lại vinh quang cho Tổ quốc hôm nay.

Nguyễn Thị Nhường

Tin liên quan

Tin mới nhất

Mẹ chồng đến chơi ở 3 tháng không định về, nửa đêm nghe một cuộc trò chuyện mà tôi mừng thầm

Mẹ chồng đến chơi ở 3 tháng không định về, nửa đêm nghe một cuộc trò chuyện mà tôi mừng thầm

Tôi chưa từng nghĩ rằng có một ngày, người phụ nữ mạnh mẽ như tôi lại phải thở dài trước cảnh mẹ chồng đến chơi... mà 3 tháng không hề có ý định rời đi. Càng không ngờ, vào một đêm khuya thanh vắng, khi khát nước thức dậy, tôi lại nghe được cuộc trò chuyện giữa chồng và mẹ chồng khiến tôi đứng lặng tại chỗ.

Thủ đô Berlin như tôi cảm nhận

Thủ đô Berlin như tôi cảm nhận

Máy bay hạ dần độ cao, Berlin xinh đẹp hiện ra mỗi lúc một rõ, trong tôi rộn lên một cảm giác lâng lâng khó tả, chẳng phải vì Berlin nhà cao cửa rộng, phố xá tấp nập, nhộn nhịp... Rồi như một cuốn phim những hình ảnh của Berlin 65 năm về trước (1959), hiện về, chúng tôi những sinh viên nghèo, từ quê mẹ Việt Nam, được Đảng và Nhà nước cho sang CHDC Đức học đại học chuyên ngành nhiế

Ai là người giàu nhất trong giới chủ thể thao Mỹ?

Ai là người giàu nhất trong giới chủ thể thao Mỹ?

Danh sách Forbes 400 năm 2025 cho thấy giới chủ sở hữu CLB thể thao Mỹ đang giàu lên nhanh chóng. 20 cái tên dẫn đầu hiện nắm giữ khối tài sản 607 tỷ USD, tăng 20% so với năm trước, trong khi ngưỡng gia nhập nhóm này ngày càng khắt khe, lên tới 10,1 tỷ USD.

Ra mắt ba tiểu thuyết về Hà Nội của nhà văn Tô Hoài

Ra mắt ba tiểu thuyết về Hà Nội của nhà văn Tô Hoài

Nhân kỉ niệm 105 năm ngày sinh của nhà văn Tô Hoài (27/9/1920 - 27/9/2025), Nhà xuất bản Kim Đồng giới thiệu đến độc giả ba tiểu thuyết đặc sắc “Kẻ cướp bến Bỏi”, “Mẹ mìn bố mìn” và “Những ngõ phố”. Đây là những tác phẩm tiêu biểu cho khả năng quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, bút pháp hiện thực và tình yêu sâu nặng của Tô Hoài dành cho Hà Nội.