Ngọn lửa tím, ngọn lửa vĩnh cửu

Nhà thơ Vương Cường vừa giới thiệu với công chúng yêu thơ Ngọn lửa tím (NXB Hội Nhà văn, quý 4/2022). Đây là tập thơ thứ tư và là tác phẩm văn học thứ năm của ông. Với một người đến với thơ khá sớm, có thơ đăng báo từ những năm chống Mỹ cứu nước, số lượng tác phẩm ấy là quá ít. Ít nhưng tinh, phần nào nói lên sự chỉn chu, cẩn thận của ông.

Ngọn lửa tím, hẳn nhiên, đó là ngọn lửa tình yêu. “Anh mang trong lòng / liu riu ngọn lửa tím / liu riu lời đắm say / anh đã đi qua những vùng đất chết / anh đã qua những chuyến đò đầy” (Hoa khế góc vườn). Trong Ngọn lửa tím không có bài thơ nào cùng tên tập thơ.

Ngọn lửa tím là thi ảnh ẩn dụ, vương nặng ký ức, hoài niệm trong bài thơ có tên Hoa khế góc vườn. Tím trắng, hai màu hòa vào nhau của hoa khế, nhưng Ngọn lửa tím; hẳn nhiên, không phải là tình yêu nam nữ chật hẹp, cá nhân. Đó là tình yêu thân phận, thiên nhiên trong cõi cân bằng. Tình yêu ấy, cháy âm ỉ, liu riu cùng nhịp trái tim ông.

Ngọn lửa tím có 37 bài thơ, có hai chủ đề tình yêu và thế sự. Tuy nhiên, đọc kỹ, thì thấy tập thơ chỉ có một đề tài duy nhất, đó là cảm thức bản thể của tác giả, trước cuộc sống.

*

Vương Cường là nhà thơ ra “bước ra” từ làng Đông Bích, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Ông đến với cuộc đời dài rộng. Đọc Ngọn lửa tím, tôi nhớ ra cái làng ấy, cái làng đã tốn của ông không biết bao nhiêu chữ, bao nhiêu thời gian làm nên tự truyện Người đánh hòa trời (NXB Nghệ An, năm 2020).

“Nếu nhìn qua, bạn không thấy có gì khác với những làng quê đã từng thấy. Bao bọc quanh làng là những lũy tre xanh, trong lũy tre xanh là những nếp nhà đơn sơ. Hai bên đường làng là hai hàng cây cau cao vút, dưới gốc còn những quả cau ố vàng rụng xuống” (Người đánh hòa trời, trang 92).

Ký ức làng của nhà thơ Vương Cường từ những bụi tre, hàng cau. Với Vương Cường, tre là đôi đũa ăn cơm, là chiếc đòn gánh, chiếc lạt, rổ rửa rau, rá đựng cơm... rất quen thuộc. Bây giờ về lại làng, tre đi đâu? “Không còn thấy cha vác cuốc cán tre ra đồng thăm lúa / không còn thấy mẹ dần sàng /.../ không còn thấy quanh vườn nhú lên / những mầm măng xanh gió” (Tre ơi). Và ông thảng thốt: “... Ta bàng hoàng trước ngôi làng không tóc / những dòng sông góa chồng trôi thút thít / những phố làng sình sịch sốt ngày đêm / tiếng chim rắc khô quăn vỏ đỗ” (Tre ơi).

Ngọn lửa tím, ngọn lửa vĩnh cửu - 1

Nhà thơ Vương Cường 

Hiện thực làng bây giờ đã khác. Làng từ lâu đã bị cuốn vào “cơn lốc” đô thị. Những năm “nông thôn mới”, “nông thôn mới nâng cao” này, cơn lốc bê tông ập lên làng càng dữ dội. Đó là một cuộc đổ vỡ tưng bừng trong sự tái tạo, như cách ví von của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Làng quê xưa có thể đói, nhưng đầm ấm thanh bình; nay có thể giàu, nhưng no ấm cùng sự bát nháo.

Đấy chính là những “ngôi làng không tóc”, ám ảnh trong bài thơ Tre ơi! Trong tiếng Việt, đó không còn là tiếng gọi mà là tiếng kêu cảm thán. “... Lấy tuổi thơ làng làm khăn lau nước mắt / tiếp năng lượng từ hồn quê trầm tích / những xôn xao chín đỏ quả thời gian / những mặn nhạt dưới tầng sâu nước mắt” (Ngôi làng nhỏ treo trên vách đá).

Chúng ta đang ở giữa không gian nhiều chiều, ngược chiều. Người ở quê thì đang nhao nhao lên thành phố kiếm sống, làm đủ nghề. Phần lớn các cháu tốt nghiệp đại học, cao đẳng kiên quyết “bám trụ” thành phố. Người ở thành phố lại đổ về quê để được sống. Hai năm Covid-19 bủa vây, cho thấy nông nghiệp vẫn là trụ đỡ, làng vẫn là “pháo đài” kiên cố. Những dòng người chạy “tháo thân”, trốn thành phố bị phong tỏa, thức tỉnh chúng ta về “hệ giá trị làng”. Đọc thơ Vương Cường, tôi cứ ao ước, mình có khả năng kinh tế để lập nên “bảo tàng làng”, giữ lại ký ức làng cho tất cả mai sau.

Tre ơi và Ngôi làng nhỏ treo trên vách đá là 2/37 bài thơ có chủ đề về làng. Xuyên suốt tập thơ là thân phận, nỗi người; nỗi mình trước nỗi người. Ông luôn muốn bóc tách hiện tượng, ướp hiện tượng vào duy cảm của mình, nảy mầm thành thơ.

Vương Cường là một nhà thơ, không “chạy theo” thế sự, thơ ông ít lệ thuộc vào nhịp sống, ít nhiễm hơi thế sự. Thế nhưng, đại dịch Covid-19 làm ông thay đổi. Covid-19 đã làm đổ gãy chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong kinh tế, vốn đã được thiết lập tương đối hoàn chỉnh cả trăm năm nay. Hiện thực thay đổi, thơ không thể không thay đổi.

Trong Ngọn lửa tím, Vương Cường có các bài thơ Tỉnh ngộ đi, Lời kiến, Nhật ký thời Covid. Riêng Nhật ký thời Covid gồm 59 câu, gồm 6 khổ, có thể gọi đó là bài thơ dài. Đó là nhật ký của thời “nhà nhà đóng cửa / đường lớn như thừa / người ở phố san về quê một nửa”... và “người sợ gặp người / sợ cả gặp người quen / cả nước bịt khẩu trang / son phấn ế hàng”. “... Những tháng ngày này / bỗng nhận ra chân lý tối giản / con người không cần nhiều thế đâu...” (Nhật ký thời Covid).

Trong vai “con kiến”, qua Lời kiến, Vương Cường cảnh báo “Đội quân của thiên nhiên luôn nai nịt gọn gàng / chờ lệnh”. Có lẽ chưa bao giờ, trên các diễn đàn quốc tế, các chính phủ; từ văn kiện đến các chương trình hành động nói nhiều đến kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... như thời “hậu Covid” hiện nay. Loài người, dường như đã nhận được lời “cảnh báo” không thể khủng khiếp hơn từ Covid-19, mình không còn là chúa tể.

*

Vương Cường vốn là người lính, thương binh. Cách đây hơn nửa thế kỷ, ngày 27/5/1972, Vương Cường nhập ngũ, hành quân vào chiến trường Quảng Trị. Ông đi qua chiến tranh, với niềm tin chiến thắng, đến tận ngày giải phóng. “Mặt trời sẽ lên thôi / chúng tôi đẩy mặt trời lên / để nhìn rõ Sài Gòn phía trước / để viên đạn bay đi khỏi lạc / bầy chim xòe quạt đón mặt trời” (Khi ấy mặt trời chưa lên, tập thơ Canh chừng lãng quên). 

Bài thơ này ông viết khi đang cùng đồng đội vượt sông Đồng Nai, tiến vào giải phóng Sài Gòn, sáng 30/4/1975. Với những người lính khát khao bình yên, dự cảm đúng về hòa bình, không có lý do gì dân tộc không chiến thắng.

Trong Ngọn lửa tím, có 5 bài thơ từ trang 81 đến 91, Vương Cường rút ra từ sổ tay mang theo dọc chiến trường, từ năm 1972 - 1975. Những bài thơ mới viết sau này cho thấy, vấn đề “hậu chiến” vẫn là đề tài ám ảnh ông. Có thể nhận ra qua các bài thơ Những ông già ngồi cà phê ở phố Định Công, Chiều nghĩa trang, Bom dội tan tành từng giấc ngủ, Một thế hệ sắp vào miền xa khuất. Những năm tháng “máu và hoa” của cả một dân tộc, trong nhà thơ, anh thương binh Vương Cường, chưa hề bị lãng quên.

Dọc đường máu là bài thơ khá dài, được Vương Cường viết trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, năm 1975. “Anh ngã xuống / khắc mũi tên vào đất / chỉ hướng Sài Gòn / xe tôi chạy qua suốt ngày đêm thần tốc / chẳng bao giờ chệch hướng mũi tên”, (Dọc đường máu). Một đồng đội ngã xuống trở thành “mũi tên”, chỉ hướng cho đồng đội băng qua mưa bom, bão đạn, đến ngày chiến thắng.

Chiến tranh không phải trò đùa, (ý ca từ trong ca khúc Mùa xuân, nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn). Thời gian luôn cần độ lùi để nhìn ra những giá trị. Không có hôm qua thì đâu có hôm nay và cả ngày mai nữa. Chúng ta càng trân quý, nâng niu hơn giá trị của hòa bình. Đó cũng chính là thông điệp, tư tưởng của những bài thơ về đề tài hậu chiến của nhà thơ Vương Cường. Ông đã và đang chắt lọc giá trị trong những bài thơ rất riêng và ám ảnh.

*

Ngọn lửa tím có nhiều điều đặc biệt. Từ nhịp điệu, thi ảnh... tứ thơ và cấu trúc tứ, đến tư duy mang tính triết học, mỹ cảm tạo nên cảm xúc khác cho người đọc. Tất nhiên, điều dễ nhận ra, ông hiện đại trên nền thi pháp phương Đông.

Nói về thi ảnh, ông liên tưởng trong vô thức và sáng tạo. Trong 37 bài ở tập Ngọn lửa tím, người đọc “có nghề” sẽ tìm ra, ít nhất một thi ảnh, cách sử dụng điệp từ mới. Đó là “bờ yêu”, “tiếng guốc trong hồn”, “sao mơ”, “hoa mong” trong bài thơ Đóa hoa hồng; đó là “những chiếc lá lao xao họp chợ”, “núi dựng chân trời, gió nhoài mặt đất” trong bài thơ Đêm; Đó là “mặt trời thả ban mai”, “bài ca mầm cây” trong bài thơ Sông chảy trong đêm... Bản thân tên tập thơ Ngọn lửa tím đã là một khác biệt của liên tưởng. “Lửa tím thì ai cũng yêu, sức quyến rũ càng lớn” (nhà thơ Hoàng Vũ Thuật).

“… Thơ viết tặng chín tầng trời xao xuyến / thanh thả hồn bật dậy giữa đơn côi / tưới nước mắt cho hoa cây xanh biếc / buông nụ cười như vừa mới rong chơi” (Sẻ chia). Có thể nói khổ thơ này, trong bài thơ Sẻ chia chính là “tuyên ngôn” của ông, về đời sống cũng như về trong thơ.

Nhà thơ Vương Cường là một người có ý thức làm giàu ngôn ngữ, làm trong sáng tiếng Việt. Thi ảnh mới, trong sáng, hồn hậu, thánh thiện. Ngoài thất thập, tâm hồn ông chín đều, ăm ắp xúc cảm. Ngọn lửa tím thủy chung, hiện hữu cùng cái đẹp.

Ngô Đức Hành

Tin liên quan

Tin mới nhất

“Chồng nhà người ta” gọi tên Lê Anh Nuôi: Mẹ bỉm nhìn mâm cơm cữ chỉ muốn "chốt đơn" ngay ông chồng thế này!

“Chồng nhà người ta” gọi tên Lê Anh Nuôi: Mẹ bỉm nhìn mâm cơm cữ chỉ muốn "chốt đơn" ngay ông chồng thế này!

"Có chồng thế này, sinh cả đội bóng cũng được!" – Đó là câu nói mà nhiều mẹ bỉm xuýt xoa khi thấy Lê Anh Nuôi tự tay vào bếp nấu cơm cữ cho vợ. Không chỉ đơn thuần là những bữa ăn sau sinh, mà từng món ăn anh chuẩn bị còn thể hiện sự quan tâm, yêu thương và chu đáo đến từng chi tiết.