Nhà “si thơ” và sự khó tính đến nghiệt ngã

Tôi là bạn đồng môn với nhà thơ Trúc Thông. Chúng tôi cùng học khóa 9 ở khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp. Cùng lớp với chúng tôi còn có các nhà thơ Ý Nhi, Ngô Thế Oanh, Trần Mạnh Thường, nhà lý luận văn học Lại Nguyên n và nhà nghiên cứu văn hóa Đức Trần Đương. Đến chơi với Trúc Thông ở phố Hồng Phúc (gần Bến Nứa), thi thoảng tôi gặp hai người bạn của chủ nhà, đều đã bắt đầu có tên tuổi trong làng thơ khi ấy (những năm 60 của thế kỷ trước). Một người là Vũ Quần Phương. Người còn lại - nhà “si thơ” - tôi sẽ nói đến trong bài viết này.

Cả ba người đều yêu thơ - đương nhiên. Không như vậy, làm sao họ có thể trở thành nhà thơ? Nhưng có một người bộc lộ cái tình yêu ấy mãnh liệt, cuồng si tới mức có phần cực đoan hơn hai người còn lại. Nếu ví với tình yêu mỹ nhân thì người này quá si tình, lao vào đối tượng tới mức quên thân mình như là có thể sẵn sàng chết vì người đẹp. Có thể nói ông yêu như điên dại, như là trên đời này chẳng còn gì đáng yêu hơn.

Đó là Tô Hà (1939 - 1991), một nhà thơ không xa lạ với bất cứ người làm thơ nào. Ông chẳng những là một tác giả rất có cá tính trong sáng tác mà còn là một người cực kỳ khó tính trong việc tạo nên những câu thơ. Để làm nên một câu, một bài thơ, ông mất rất nhiều công sức. Ông hình thành nên bài thơ có thể không mất nhiều thời gian, thậm chí có trường hợp chỉ sau nửa giờ đồng hồ, nhưng để hoàn chỉnh, đã mất cả tuần, có khi cả tháng, thậm chí là cả năm. Thời gian ông dành cho sự đẽo gọt, mài giũa không bao giờ là đủ. Nhiều trường hợp câu thơ hoặc một chữ nào đó đã rất ổn, nhưng ông vẫn tiếp tục suy nghĩ tìm kiếm để thay đổi cho đến khi vừa ý hoặc không tìm được mới đành chịu.

Nhà “si thơ” và sự khó tính đến nghiệt ngã - 1

Nhà thơ Tô Hà

Một ví dụ: Trong bài Con đường lên Sơn Tây có hai câu tôi cho là rất đặc sắc: “Ngựa sững vó đầu làng/Quán gầy xôi nếp thơm”. Tô Hà cho rằng “ngựa sững vó” thì được rồi nhưng “quán gầy” chưa ổn. Tôi nói viết như thế là rất hay. Quán gầy là một hình tượng đắt, rất gợi cảm, rất đúng với những quán nước bé nhỏ ở hai bên ven đường thời trước. Tôi thấy đã rất hay nhưng Tô Hà nói “quán gầy” còn có phần trừu tượng, chưa biểu hiện được sự tiêu điều, xiêu vẹo, có thể đổ sụp bất cứ lúc nào của những quán như thế này. Tôi bảo không thể có chữ nào hay hơn. Tìm mãi không ra được chữ khác, ông mới chịu để “quán gầy”. 

Tô Hà là nhà thơ rất thích âm nhạc. Ông biết và thuộc khá nhiều bài hát. Trong nhiều bài nổi tiếng, ông vẫn vạch ra được rất nhiều lời ca ngô nghê, thể hiện sự dễ dãi hoặc cẩu thả của tác giả. Có thể nói trường hợp nào cũng chính xác và tôi rất tâm đắc. Ông bảo có những nhạc sỹ ông rất yêu thích, hâm mộ toàn bộ sự nghiệp nhưng riêng về viết lời ca thì có rất nhiều trường hợp chưa được. Rồi có lần, ông gạ tôi: “Này, Nguyễn Đình San. Tôi muốn làm một cuốn vạch ra mọi sự yếu kém về ca từ trong các bài hát hiện nay. Chúng ta cùng thực hiện. Tôi phân tích cái dở về tu từ. Ông là nhạc sỹ sẽ phân tích sự bất ổn khi ghép nó vào âm nhạc. Được không? Cuốn này mà ra đời thì sẽ rất có ích và tôi tin bạn đọc sẽ rất hưởng ứng. Ông thấy sao?”. Tôi chỉ ừ hữ, vâng dạ cho xong vì nghĩ không dễ thực hiện.

Tôi không chuyên làm thơ. Nhưng mỗi khi gặp nhau là Tô Hà hầu như chỉ nói chuyện về thơ. Thăm hỏi cuộc sống, vợ con, công việc, nói đến người này người khác mà cả hai đều quen biết, giao du… cũng chỉ được vài câu rồi cuối cùng lại quay trở về chuyện thơ phú. Và chỉ có chuyện này mới có thể khiến Tô Hà để tâm, hứng thú. Có cảm giác ông bàn về thơ không bao giờ là đủ, không bao giờ biết chán, có thể thâu đêm suốt sáng. Tất nhiên phải trước những đối tượng có khả năng nghe, hiểu, thẩm thấu, tung hứng được những điều ông nói.

Lúc còn sống, Tô Hà ở khu tập thể Đại học Bách khoa, tôi ở khu Fafim (Ngã Tư Sở). Vợ ông sang Ăng-gô-la làm chuyên gia y tế. Ở nhà, ông rất buồn, nhớ vợ. Lúc này ông là trưởng ban biên tập báo Người Hà Nội, tôi ở báo Văn hóa Nghệ thuật. Một hôm, ông gọi điện đến cơ quan tôi thông báo sự việc vợ đã đi công tác xa và nói tôi đến chơi để nghe một sáng tác mới của ông. Tôi ít nhiều lưỡng lự thì ông nói liền: “Bài thơ thú vị lắm. Ông đến nhé!”. Tô Hà cũng không quên nói thêm: “Vợ đi vắng, tôi rất buồn. Không lẽ ông không cảm thông với tôi mà lại tiếc thời gian?”.

Ông đã nói vậy, tôi không thể không đến. Ngay chiều hôm ấy, tôi đến nhà ông. Đến nơi đã thấy một đĩa lòng lợn ú hụ để giữa mâm. Thì ra ông đã chuẩn bị cho cuộc đàm đạo. Ông đọc rất say sưa bài thơ Em về chiêm bao vừa sáng tác tặng vợ đi công tác xa: “Ăng-gô-la là đâu/Mà lên đường em khóc?/ Ru-an-đa là đâu/Mà tháng năm dằng dặc?/ Mà nửa vòng trái đất/Mà nửa vòng chiêm bao”.

Nhà “si thơ” và sự khó tính đến nghiệt ngã - 2

Ảnh minh họa

Đọc xong, Tô Hà hỏi cảm tưởng của tôi. Thấy tôi không trả lời ngay mà có phần dè dặt, ông nói liền: “Bình thường phải không? Mình biết ông khó tính. Đúng. Bài này trung bình, mình chỉ ưng ý câu cuối cùng. Lúc mới viết xong thì sướng lắm, muốn đọc ngay cho bạn bè nghe. Nhưng bây giờ thì hết muốn. Thôi, coi như nhật ký bằng thơ”. Tôi rất nể đức tính ấy của Tô Hà. Ông say sưa từng lời thơ của mình, sống chết với nó. Có cảm giác ông yêu nó hơn mọi thứ trên đời. Nhưng không vì thế mà chủ quan, ngộ nhận, chỉ thấy thơ mình hay còn thì chẳng để ý đến sáng tác của người khác như nhiều người viết vẫn mắc tật này. 

Sự tự khó tính với bản thân trong sáng tác của Tô Hà không phải ai cũng có được. Có rất nhiều bài lúc đầu đầu ông viết dài nhưng rồi đọc đi đọc lại, vẫn sẵn sàng lược bỏ rất nhiều, có khi chỉ để lại một khổ. Quán gió là một trong những bài thơ khá của ông. Lúc đầu ông viết 6 khổ, mỗi khổ 4 câu, vị chi 24 câu tất cả. Cuối cùng ông vứt hẳn đi 5 khổ để chỉ còn 1 khổ 4 câu. Tôi nói 5 khổ kia có thể chưa đặc sắc, nhưng cũng không đến nỗi nào, bỏ đi thì phí bao nhiêu công sức. Ông nói nghệ thuật không thể trung bình mà phải đặc sắc, ít nhất là theo quan niệm của người sáng tác.

Bài Em về chiêm bao tôi vừa nhắc ở trên lúc đầu Tô Hà cũng làm khá dài. Nhưng cuối cùng ông đã lược bỏ gần hết để chỉ còn lại 6 câu như đã dẫn. Bài Qua thị trấn cũng là một trường hợp thú vị. Sau khi làm xong, ông cứ băn khoăn mãi vì chưa yên tâm một câu. Lúc đầu ông viết: “Dưới gốc bàng già tán lá tươi xanh”. Hai chữ “tươi xanh” ông cho rằng quá bình thường, thậm chí là tầm thường. Ông mất ăn mất ngủ vì chi tiết này. Phải tới vài tháng qua đi, bỗng một hôm, ông sửa được lại thành “ran xanh”. “Dưới gốc bàng già tán lá ran xanh” quả là hay hơn rất nhiều. Từ một câu chỉ là lời nói thông thường trở thành rất gợi  cảm. “Ran” là một từ tượng thanh đã biến thành “ran xanh” chỉ màu sắc. Như vậy, người đọc hình dung dưới những lá xanh kia có rất nhiều chim đang trú ngụ, hót ríu ran. Sự sống đã được biểu hiện sinh động hơn rất nhiều qua từ “ran xanh” mà nếu “tươi xanh” thì chỉ là những chiếc lá không khô héo.

Có thể nói Tô Hà tiêu biểu cho khuynh hướng duy mỹ, đặc biệt là trong việc làm thơ. Ông quan niệm thơ phải đạt được cái đẹp vĩnh hằng. Vậy nên khi có ai in sai hoặc đọc sai thơ của mình, ông vô cùng buồn phiền, bứt rứt, bức xúc. Tôi có phổ nhạc bài thơ Con đường lên Sơn Tây của ông. Tôi đề nghị bỏ chữ “con” để chỉ là “Đường lên Sơn Tây”. Ông dứt khoát không đồng ý với lý luận: “Đường” thì có phần chung chung, gần với nghĩa bóng (đường hướng, đường lối). Ông muốn nói đến con đường cụ thể là từ Hà Nội lên Sơn Tây nên phải có chữ “con”.

Tôi cũng không vừa: “Nhà thơ ơi! Ta vẫn hỏi thăm nhau: Đường đến điểm A, nơi B đi thế nào, chứ có ai nói “con đường” đâu”. Tô Hà vẫn một mực bảo lưu ý mình. Cuối cùng chúng tôi đành dung hòa bằng cách trong bài thì tôi để nguyên – có chữ “con”. Nhưng tên bài hát thì chỉ là Đường lên Sơn Tây. Khi thu thanh bài hát này ở Đài Phát thanh Hà Nội, tôi bận công tác xa nên không có mặt tại phong thu thanh. Biên tập sơ ý đã để ca sỹ hát sai một chữ trở nên rất ngớ ngẩn: “Triền đay” thành “Chiều đay” (Triền đay hoa trắng vỗ).

Sau đó, Tô Hà rất bức xúc việc này. Ông đốc thúc tôi yêu cầu Đài thu thanh lại. Tôi chưa thực hiện, ông nhắc đến cùng. Tôi đành nói: “Tôi đã nhắc. Họ hứa sẽ thu lại. Nhưng xin anh hiểu cho là chúng ta không là cái đinh gì đối với họ. Thu lại tốn kém lắm. Giá bảo chúng ta là Đỗ Nhuận và Huy Cận (hai nhạc sỹ và nhà thơ lớn) thì họ sẽ chiều các tác giả ngay. Nhưng ta chỉ là ta. Tô Hà càng bực, mặt đỏ bừng: “Vậy xin ông đến Đài nói họ đừng phát nữa. Tôi xấu hổ về cái chữ “chiều đay” ấy lắm!”.

Tô Hà là như thế. Ông si thơ như người trai si tình mê người đẹp. Ông sẵn sàng bỏ thời gian nhiều năm để thực hiện cuốn sách Những câu thơ trong trí nhớ sưu tầm những câu thơ hay nhất, đến nay vẫn là việc làm vô tiền khoáng hậu. Ông khó tính đến nghiệt ngã trong nghiệp thơ bao nhiêu thì lại dễ tính, xuề xòa trong cuộc sống đời thường bấy nhiêu. Ông là một gương mặt thật đáng yêu, khó quên trong làng thơ đương đại. Thật tiếc khi ông từ giã cõi tạm quá sớm, lúc mới 52 tuổi – độ tuổi đang chín của nghề cầm bút.

Nguyễn Đình San

Tin liên quan

Tin mới nhất

Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin trả lời câu hỏi về âm nhạc của Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân

Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin trả lời câu hỏi về âm nhạc của Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân

Tối 20/6, tại Nhà Hát lớn Hà Nội, Chủ tịch nước Tô Lâm và Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin đã có cuộc gặp gỡ thân mật với Lãnh đạo Hội hữu nghị Việt – Nga và các thế hệ cựu sinh viên Việt Nam từng học tại Liên bang Nga. Cuộc gặp mặt có sự tham gia của khoảng gần 400 khách mời là những người đã từng có nhiều gắn bó, yêu mến đất nước, con người và văn hóa Nga. Tại đây