Nhà văn Nguyễn Trương Quý, “kẻ lang thang” trên những con đường cũ – mới
Người yêu Hà Nội thì nhiều, người viết về Hà Nội cũng rất nhiều, nhưng lạ ở chỗ, người viết như Nguyễn Trương Quý đại diện cho một lớp công dân mới của thủ đô, đi nhiều, biết nhiều, nhưng vẫn lặng lẽ yêu Hà Nội theo cách riêng của mình dù cho dù cuộc sống đang trôi đi gấp gáp.
Có rất nhiều góc độ khác nhau để vẽ nên chân dung thành phố, Nguyễn Trương Quý, lần này chọn vẽ chân dung Hà Nội qua những dấu chân đi về.
“Đi trên đường cái, khi nào người ta nhìn thấy một thành phố? Có thể là lúc thấy một biển chào cùng ký hiệu khu đô thị. Khi các thành phố mở rộng, những cột mốc này thay đổi. Nhưng cột mốc giới hạn thành phố trong tinh thần lại định vị bằng một trữ lượng văn hóa, bằng những di sản vẫn đang hiện diện ngấm ngầm trong hành vi thường nhật của người đô thị” (Triệu dấu chân qua những cửa ô).
Và, Hà Nội “định vị” trong Nguyễn Trương Quý bằng “một màu ngói cũ”, “một ánh đèn đường xanh biếc gợi kỷ niệm thanh xuân”, “một chút huyền thoại thần tiên phủ lên những di tích và những cửa ô đã mòn dấu triệu bước chân đi về”.
Trong cuộc đi lại mải miết ấy, tác giả cho rằng theo vòng quay lịch sử, không gian và sự vật đổi thay đã kéo theo sự đổi thay của tâm tình người Hà Nội. Đó có thể là sự lãng quên hình ảnh các cửa ô từng hiện diện đến cuối thể kỷ XIX và thay vào đó, con người ta chỉ còn quen với những ngã năm Chợ Dừa, ngã tư Đại Cồ Việt, ngã tư Cầu Dền…
Mới đây, nhà văn Nguyễn Trương Quý (ngồi giữa), PGS.TS Phạm Xuân Thạch, biên tập viên Nguyễn Hoàng Diệu Thủy cùng một số “bạn văn” đã có những chia sẻ xoay quanh mảnh đất Hà thành cũng như tập du khảo Triệu dấu chân qua những cửa ô.
Đó cũng có thể là nỗi hoài niệm về tiếng leng keng tàu điện, thứ âm thanh khiến “người thời bao cấp và cả hậu bao cấp vẫn như được đồng hội đồng thuyền với người thời Pháp thuộc. Nó mỹ hóa ký ức của họ. Họ nhớ tàu điện là nhớ năm tháng nhọc nhằn, để rồi bồi đắp một ý niệm về vẻ đẹp khổ hạnh mà giờ đây lại thành của hiếm” như lời Nguyễn Trương Quý.
Lọc ra trong vô số tư liệu xưa để tìm các chi tiết, rồi từ đó xâu chuỗi thành điểm nhìn mới mẻ là cách Nguyễn Trương Quý làm nên cuốn sách của mình. Khi tìm hiểu những không gian, sự vật, sự kiện, nhân vật trong câu chuyện đi lại này, Nguyễn Trương Quý luôn đào sâu xuống dưới những mô tả bề mặt, những con số khô khan, để đưa ra những nhận xét, phán đoán sâu sắc, thú vị hoặc gây bất ngờ.
Người yêu Hà Nội thì nhiều, người viết về Hà Nội cũng rất nhiều, nhưng lạ ở chỗ, người viết như Nguyễn Trương Quý đại diện cho một lớp công dân mới của thủ đô, đi nhiều, biết nhiều, nhưng vẫn lặng lẽ yêu Hà Nội theo cách riêng của mình dù cho dù cuộc sống đang trôi đi gấp gáp.
“Tôi không biết hết các con ngõ ở Hà Nội, nhưng tôi đặc biệt hay để ý những dấu tích xưa cũ, muốn được sờ chạm vào những trầm tích của quá khứ. Tôi tin rằng tìm kiếm bóng dáng cũ không chỉ để hoài niệm mà còn để nhận diện cách ứng xử của hôm nay với hôm qua”, nhà văn Nguyễn Trương Quý chia sẻ.
Nhà văn Nguyễn Trương Quý tại buổi ra mắt tập du khảo Triệu dấu chân qua những cửa ô
Khi đọc tập du khảo này, PGS.TS Phạm Xuân Thạch cho rằng, hành trình tìm hiểu về Hà Nội của Nguyễn Trương Quý không phải là cố dựng lên một huyền thoại, mà anh tìm cách giải thích, cắt nghĩa xem cơ chế của những huyền thoại đó được dựng lên như thế nào.
“Cuốn sách có sự hòa hợp nhuần nhuyễn giữa khảo cứu kỳ công và chất văn thơ đầy hấp dẫn, tạo nên chân dung thành phố với dáng vẻ riêng của nó, một cảm giác thật gần gũi khi đọc về Hà Nội và nó khiến độc giả nắm bắt được trọn vẹn tâm hồn của mảnh đất này”, PGS.TS Phạm Xuân Thạch nói.
Có lẽ, Nguyễn Trương Quý từ lâu đã xác lập mình là nhà văn của Hà Nội, "người say mê ghi lại những trầm tích quá vãng cả trong đời sống vật chất lẫn thế giới tinh thần". Triệu dấu chân qua những cửa ô cùng với nhiều cuốn sách khác của anh, đã góp phần làm nên một định nghĩa về Hà Nội, cố định những giá trị, để Hà Nội dù trở nên hiện đại vẫn là một đô thị có hồn cốt riêng.
“Năm cửa ô hay nhiều hơn thế, ngày nay đã nằm lọt giữa một vùng đô thị rộng lớn của Hà Nội thế kỷ 21. Chúng chỉ còn lại những cái tên được dùng lại ở một vài tuyến phố hay tên phường hành chính làm kỷ niệm, ngoại trừ Ô Quan Chưởng mỗi ngày một bé nhỏ giữa những ngôi nhà nhiều tầng xung quanh. Nhưng chẳng phải ở đất này, những cái bé nhỏ lại là thứ khiến chúng được đồng cảm đó sao: “Tôi bồi hồi khi chạm bóng cửa ô, như ngày xưa chạm vai gầy áo mẹ” (nhạc Phú Quang, thơ Thanh Tùng)? Chúng còn sống là nhờ những ký ức được đọc lên, hát lên, tạo ra sự giằng méo của người hôm nay với nơi chốn định hình họ” (Triệu dấu chân qua những cửa ô).
Tập du khảo Triệu dấu chân qua những cửa ô
“Nhập thành”, “Lên xe xuống bến”, “Hưởng hoa ngoạn thủy”, “Lạc thú và ưu tư”, “Tiếng rền của phố” - 5 chương như một sự tương ứng với ý nghĩa về “huyền thoại” 5 cửa ô (dù Hà Nội thực tế có nhiều cửa ô hơn thế), cuốn sách này, thực sự là một hành trình được thuật lại đầy tỉ mẩn, kỹ lưỡng, như cái cách Nguyễn Trương Quý quan sát và dành tình yêu mê đắm cho Hà Nội.
Với mỗi sự vật, hiện tượng, câu chuyện, tác giả đều đặt trong mối giao thoa cũ - mới. Người đọc có thể nhẩn nha nhấp một chén trà và nhìn lại quá khứ rồi bật cười hóm hỉnh vì tự nhìn ra sự so sánh giữa quá khứ và hiện tại.
Một cuộc lãng du chầm chậm theo cả hai chiều không gian – thời gian, nơi người bộ hành ví mình như “kẻ lang thang” trên những con đường cũ – mới, hấp dẫn vị sâu lắng ngậm ngùi pha lẫn tiếng cười hài hước ý nhị phảng phất trong từng trang văn của Nguyễn Trương Quý.
Nhà văn Nguyễn Trương Quý sinh ra và sống tại Hà Nội. Anh tốt nghiệp kiến trúc, hiện viết văn, vẽ tranh, làm đồ họa và làm truyền thông. Anh đã cho xuất bản nhiều tác phẩm: Tự nhiên như người Hà Nội (2004); Ăn phở rất khó thấy ngon (2008); Hà Nội là Hà Nội (2010); Xe máy tiếu ngạo (2011); Còn ai hát về Hà Nội (2013); Dưới cột đèn rót một ấm trà (2013); Mỗi góc phố một người đang sống (2015); Lê la quà vặt & Ăn quà xuyên Việt (cùng Đặng Hồng Quân, 2016); Một thời Hà Nội hát - Tim cũng không ngờ làm nên lời ca (2018); Kể chuyện Tết Nguyên đán (cùng Kim Duẩn, 2019); Hà Nội bảo thế là thường (2020). Năm 2019, nhà văn đoạt Giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội. |
Bình luận