Thi sĩ tồn tại để làm gì? (Về tập thơ “Dần sáng”, Nguyễn Thị Kim Nhung, Nxb Hội Nhà văn, 2025)
Thi sĩ tồn tại để làm gì? là tên một tiểu luận của M. Heidegger (1946), như sự trả lời câu hỏi quan trọng của Hölderlin: Thi sĩ tồn tại để làm gì trong thời khốn khó. Những ưu tư thi ca và triết học nghệ thuật ấy đã gợi ý cho bài viết này, về tập thơ “Dần sáng” của Nguyễn Thị Kim Nhung.
Việc chú trọng vào khía cạnh “thời khốn khó” - hậu Thế chiến II, Chiến tranh Lạnh, bom nguyên tử, các động thái hiện đại… đã dẫn Heidegger đến góc nhìn xã hội - văn hóa khi đánh giá nghĩa lý tồn tại của thi sĩ. Đặc biệt, ở đó, ông nhấn mạnh vào tình cảnh thiếu vắng thánh thần, hay chính xác hơn, đó là sự thiếu vắng tính thiêng, sự thiêng liêng, khiến cho “thần linh đã không ở cùng chúng ta được nữa” (Julian Young, Triết học nghệ thuật của Heidegger, Như Huy dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, Nxb Thế giới, 2019, tr 208).
Suy niệm từ những ưu tư của Hölderlin và Heidegger, ta đối diện với thực tại “khốn khó” của thi ca Việt Nam hiện thời, trong tình cảnh đầy ngán ngẩm nảy sinh từ sự xung đột của thiếu và thừa, cùng nền tảng văn hóa thơ tương đối thấp. Trạng thái lạm phát trữ tình như một nét bản sắc tâm tính của cộng đồng người Việt cũng không thể cứu vãn tiếng thở dài khi ai đó nói chuyện thơ, tệ hơn là thái độ xem thường hay mai mỉa, cười cợt người làm thơ. Thơ trở thành “thơ thẩn”. Nhiều ý kiến cho rằng nhà thơ trở thành kẻ viển vông, xa rời thực tế, thậm chí là nhếch nhác, lôi thôi, la cà, dặt dẹo, phiêu bạt… Chính sự phàm tục, hời hợt của đời sống đã làm cạn kiệt tính thiêng, “không còn cái gì là thiêng liêng nữa”, và sự thật, thơ như là mật ngữ của thánh thần gửi trên môi thi sĩ đã rời bỏ con người.

Tập thơ “Dần sáng” của tác giả Nguyễn Thị Kim Nhung.
Dẫu vậy, chỉ thi sĩ mới biết mình vẫn còn phải mang vác trên vai sứ mệnh “phôi dựng cái thiêng liêng”, làm tổ, xây điện thờ, cho cái thiêng về ngự. Trong rất nhiều nỗ lực giữa tình cảnh khốn khó ấy, tập thơ Dần sáng của Nguyễn Thị Kim Nhung có thể là lời thì thầm ẩn chứa sự nâng đỡ, giúp cho bước chân trần tục nhẹ nhõm hơn trên hành trình đi tìm “thần thánh” của mình. Như vậy, khía cạnh “thiêng” trong những bàn luận được gợi ra từ đây hàm ý về đức hạnh, phẩm chất của thơ, đồng thời cũng hướng đến cộng đồng với tinh thần kiến tạo - nâng cao văn hóa thơ, nhằm cứu rỗi sự kiệt quệ đức tin (sự trọng thị dành cho thơ như một hình thái mĩ học linh diệu bậc nhất của ngôn ngữ con người, một giá trị tượng trưng cao cấp trên thang bậc giá trị của các loại hình nghệ thuật) trong đời sống đương đại.
Dần sáng thiết lập một ý niệm về thời gian (nhưng cũng đồng thời thiết lập một trạng thái không gian), nơi “bóng” - “vang” và “ảo ảnh” chập chờn ẩn hiện, làm thành không gian của cái thiêng như là nơi trú ngụ của mĩ học thi ca. Dẫu còn vương âu lo, nhưng đức tin dần trở lại khi ta lần theo bóng - vang và ảo ảnh: “tiếng gọi loang đồng ruộng/ làm giật mình bóng đêm/ người đi soi trở về/ men theo những tờ mờ sót lại// nhà ai thổi cơm sớm/ gạo đổ vào nồi để lại tiếng vang/ nuôi nhau qua ngày giáp hạt// ta đã khác mà giọng người còn biếc/ ban mai rạn bóng cơ hồ/ người vợ mặc lại áo/ hai vạt khép bóng đêm/ đôi vầng sáng miên man thầm tỏa” (dần sáng). Nhưng, tại sao bóng - vang - ảo ảnh lại là điểm nhấn phôi tạo cái thiêng/ tính thiêng? Có lẽ, trạng thái mơ hồ, trừu tượng, khó minh định cùng khả năng vẫy gọi linh giác, đức tin, niềm sùng mộ trong nhịp điệu sống của con người là điểm tương đồng của tính thơ và tính thiêng (thi sĩ và triết gia là những kẻ canh giữ ngôi đền của hiện hữu).
Trước hết, xin bàn về bóng. Bóng chứng thực cho cái hữu hình được hắt sáng. Ở đây, ta nhớ tới TS Nguyễn Nam (Cái bóng và những khoảng trống trong văn học) hay Nhị Linh (phiếm bàn về “vang và bóng” của Nguyễn Tuân) khi những câu chuyện của họ mở ra một số suy tưởng. Dẫu vậy, cái bóng mà Nguyễn Nam tập trung nghiên cứu, mới chỉ là bóng người/ cái bóng của thiếu phụ Nam Xương trên vách (dẫn đến cái bóng của hạnh phúc, hay bóng tối của bi kịch khi Trương Sinh ngộ ra từ lời nói con trẻ - Truyền kỳ mạn lục - Nguyễn Dữ).
Trong tập Dần sáng của Nguyễn Thị Kim Nhung, bóng được quan sát rộng hơn, đa dạng hơn: bóng cha, bóng làng, bóng nhau, bóng thầm, bóng đêm, bóng tối, bóng đen, bóng cơ hồ, bóng mùa hè, bóng núi, bóng lửa, bóng đôi, bóng chim, bóng người… Không ngẫu nhiên (nhưng có lẽ chính thi sĩ cũng không ý thức), trong một tập thơ, mật độ “bóng” lại dày đến thế. Mọi mô tả, dù là bóng hay hữu thể của bóng, đều chiếu ngược trở lại một cái nhìn/ một cảm quan (TS Nguyễn Nam gọi là phản thân). Có thể, đó là cái nhìn từ ngoài, từ xa, cũng có thể là cái nhìn thật gần với sự trợ giúp đắc lực từ tâm tưởng, ký ức.
Dẫu thế nào, bóng trong Dần sáng vẫn làm trỗi dậy những hình hài không còn có thể chạm vào từ hình dung vật lý. Như thế, hẳn đã có nhiều mất mát, hay chí ít là đã có khoảng cách - gián cách giữa những thực thể có bóng - tạo bóng với chủ thể (NTT nhấn mạnh).
Những ám ảnh về bóng đồng thời cũng nói lên trạng thái tinh thần của thi sĩ - những bi kịch cá nhân. Thấy bóng, nhớ bóng, tưởng tượng ra bóng, suy tư về bóng hay chìm trong bóng… phôi tạo một cơ hội cho các thực thể sống lại (trong một hình dung khác), mơ hồ hơn, nhưng cũng vì thế lại đầy đủ hơn ký ức, tưởng tượng, cảm xúc - thậm chí đã được cấp thêm nghĩa từ thi sĩ. Và ở đây, trong Dần sáng, bóng trở thành đạo đức của chủ thể - thi sĩ trước những mất mát và gián cách (ám ảnh khôn nguôi, nhớ, thương, tiếc nuối, khắc khoải). Cũng từ đây, bóng (cùng với “vang” và “ảo ảnh”) trở thành đức hạnh của thơ Nguyễn Thị Kim Nhung.
Nếu bóng là kết đọng của nhìn, thì vang là kết lắng của nghe. Dĩ nhiên, các giác quan chẳng biệt lập. Nhìn - thấy, nghe - thấy, ngửi - thấy, cảm - thấy… trăm mối về một làm tròn đầy cảm nhận của ta về các thực tại. Nhưng, điểm khác nhau ở đây là cơ chế vận hành. Bóng liên quan tới hình, còn vang là sống đời của tiếng cùng những râm ran, huyên náo, văng vẳng, vọng, ngân, im tiếng, lặng thinh, tắt lịm… Tuy vậy, ngay trong lặng thinh, tắt lịm, những vang của thực tại, những vọng của tâm can vẫn có thể được nghe - thấy. Nghĩa là, trong thi giới Dần sáng, vang như một thực tại được tri nhận (từ thi sĩ) và vang như một phẩm chất của thi ca.
Điều quan trọng là, men theo Dần sáng, ta chập chờn thấy bóng, mơ hồ những thanh âm, đánh thức mĩ cảm, linh giác về cõi thơ - cõi thiêng: “hương thơm tràn lòng tay/ mùa quả chín dâng đầy ký ức/ trong giấc mơ ta lén về hái trộm/ giật mình nghe lá vỡ trong vườn” (mùa chín); “những đứa trẻ sinh ra/ giấu buồn trong tiếng khóc” (những đứa trẻ)…
Những đời tiếng giấu mình trong vang vọng không khó để nhận ra. Đó là thanh âm cuộc sống mà thi sĩ lắng - nghe - thấy. Dẫu vậy, sau tất cả, tiếng vang/ âm điệu của thơ mới là điều đáng nói trong nỗ lực của Nguyễn Thị Kim Nhung. Tiếng thơ ấy buồn buồn, vang lên trong đơn độc cô lẻ, khi thủ thỉ giãi bày, khi hẫng hụt chơi vơi, khi lấp lánh hi vọng… làm sống lại đức tin, cho ta nương nhờ đi qua khốn khó.
Họa điệu cùng bóng và vang là những ảo ảnh. Ảo ảnh có bóng không? Ảo ảnh có vang không? Có thể có, có thể không, nhưng ảo ảnh là thực tại trong tâm linh thi sĩ. Ảo ảnh là hiện thân của hoài niệm, của ký ức, của mộng mơ, về những điều đã không còn hình - bóng và tiếng vang (hiểu theo nghĩa cụ thể): “tuổi ba mươi ta đánh mất cánh buồm/ nơi mắt người chỉ còn ảo ảnh/ đám mây đã vẽ vào trời xa” (niềm tin); “giấc mộng ấy nói với ta điều gì/ cơn mưa là ảo ảnh của mây/ mây đổ xuống bóng đen ngờ vực” (vẽ đêm)… Ảo ảnh làm thực tại buồn hơn bởi những chơi vơi nhòa nhạt. Nếu bóng và vang hình thành cơ bản từ cái nhìn bên ngoài, thì ảo ảnh lại được xác lập từ điểm nhìn bên trong (tâm tưởng - mộng mơ).
Có lẽ vì thế, thi giới Dần sáng phảng phất hơi hướng siêu thực. Chính tại đây, ta nhận ra siêu thực đã cứu vãn hiện thực, sát hơn, ảo ảnh siêu thực đã nhắc nhở tâm linh - tâm tưởng con người về những chiều kích và chiều sâu của tồn tại. Sự phàm tục, hời hợt mang khuôn mặt tự mãn, xem thường những giá trị tượng trưng - siêu hình, cùng với sự lên ngôi của các tiện ích vật chất, đang xâm lấn mọi ngõ ngách của đời sống, làm xơ cứng, nghèo nàn tâm hồn - tâm linh con người. Ảo ảnh trong thơ mềm hóa thực tại, linh diệu hóa cảm năng, chính là nẻo về của tinh thần đương đại.
Giữa bóng - vang và ảo ảnh, qua Dần sáng, ta biết mình cũng chỉ như một đồng vọng giữa nhiều âu lo và hoài nghi. Dẫu sao, vẫn phải cất bước, trước hết vì đức tin trong chính lòng mình. Nếu đứng lại, ta có thể chìm trong đêm tối, sẽ mất bóng, sẽ lặng im, sẽ xơ mòn. Khi đời sống mất đi tính thiêng, mà con người thì lại thờ ơ, phàm tục, đến cả Thượng đế cũng rời đi, nói gì thần thánh. Bởi vậy, thi sĩ phải được triệu hồi để đảm đương việc phôi dựng không gian thiêng cho thánh thần ngự hiện. Niềm an ủi giữa thời khốn khó chính là có những tập thơ như Dần sáng, và đó đây, những thi sĩ khác, đang cất bước.
Thời hiện đại là thời khốn khó cho nhiều tồn tại, đặc biệt là những tồn tại siêu hình, tượng trưng. Nhưng cũng chính vì áp lực của thời hiện đại mà thi sĩ càng phải kiên tâm bền chí cùng đức tin mãnh liệt trên con đường của “người được chọn”. Ở Việt Nam, rực rỡ như Thơ mới (1932 - 1945) rồi cũng đến lúc người ta đòi phải “chôn” nó. Sự ra đời của Xuân Thu nhã tập hay Dạ Đài là một kinh nghiệm phôi dựng lại tính thiêng, và ở đó, thi sĩ là thầy tư tế đã rũ áo lên đền. Trong bóng - vang và ảo ảnh của tiền kiếp, ta vững tin hơn vì Dần sáng đã khai sinh.

Nhiều người bình thơ bằng cách "diễn nôm" cái ý của tác giả đã rõ như ban ngày thay vì phát hiện ý tứ, những tầng,...
Bình luận