Từ chiến tranh về với hòa bình

Vào tháng tư năm 1972, Lê Thành Nghị, thành viên của tổ ba người lính thông tin đóng quân trong hang núi, cách thị trấn Đồng Mỏ chừng 3 cây số. Ba người có nhiệm vụ duy trì một đoạn đường dây liên lạc quân sự chừng vài chục km từ Lạng Sơn về Hà Nội. Người lính trong hang cũng có lúc tranh thủ ra thị trấn Đồng Mỏ đọc sách tại một cửa hàng sách mậu dịch nơi miền núi xa xôi này. Thỉnh thoảng đến rồi quen, nhờ vậy anh được cô gái trông coi cửa hàng cho mượn 3 quyển tiểu thuyết.: “Đỏ và Đen”, “Jên-erơ”, “Đồi gió hú” về đọc.

Xịch một cái. Đơn vị 3 người nhận lệnh gấp rút chuyển quân. Lê Thành Nghị vội mang 3 quyển tiểu thuyết đến hiệu sách trả lại. Hiệu sách đóng cửa. Anh đành mang 3 cuốn ấy theo đường hành quân. Mãi sau năm 1975, khi từ chiến tranh về với hòa bình, Lê Thành Nghị ngược đường lên Đồng Mỏ. Hiệu sách không còn. Người xưa cũng không tìm thấy nữa. Cái cơ duyên ấy theo anh đi khắp các nẻo đường đời cho đến hôm nay. Biết làm sao được.

Để ghi nhớ chuyện này, nhà thơ Lê Thành Nghị đã chắp bút viết bài thơ Trong suốt sông Kỳ Cùng với bao hoài niệm thật đẹp của người lính trẻ thông tin năm ấy bước vào chiến tranh, bước vào thơ để trở về với sông Kỳ Cùng trong suốt nguyên một dải chàm xanh, con sông duy nhất chảy ngược qua biên thùy lên phía bắc để hoa tím chẳng về xuôi.

Chao ơi! Các thi sĩ của thời đại chúng ta có bao nhiêu kỷ niệm khi từ người trần ở cõi nhân gian bước tới thi đàn. Nhưng ít ai có được cái tình người tình thơ giản dị mà sâu nặng, cái vật làm tin chẳng bao giờ trả được như 3 cuốn sách trầm lặng chẳng nói nên lời kia.

Từ chiến tranh về với hòa bình - 1

Nhà thơ Lê Thành Nghị.

Lê Thành Nghị đăng ký hộ tịch vào làng thơ hiện đại cùng với nhiều nhà thơ đi vào chiến tranh từ văn khoa Đại học Tổng hợp Hà Nội. Họ hào hoa phong nhã và thường rất thích triết lý. Thanh Thảo, Bế Kiến Quốc, Ý Nhi, Lê Thành Nghị, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Mai Quỳnh Nam, Đặng Huy Giang v.v... Các anh để lại một đường sáng khó quên trong thơ ca chống Mỹ cứu nước viết trước và sau chiến tranh. Phần lớn trong số họ ngấp nghé vào cửa văn chương từ hồi là sinh viên ở thung lũng Đại Từ. Nơi khoa văn sơ tán hồi giữa những năm 60.

Sau chiến tranh - năm 2007, Lê Thành Nghị đã về lại nơi này để viết nên những dòng thơ đầy cảm kích tưởng như anh trách ai mà tự trách mình, nếu ai đã quên thung lũng mùa rét cũ, khăn mùa đông giờ đã như mây. Núi Võ núi Văn với ngọn đèn dầu thao thức vì thơ những năm chiến tranh để rồi một ngày trở lại trong hoài niệm nhiều hơn là trong hiện thực.

“Ta mải đi quên một chiều lau xám

Quên một mùa rét cũ giữa rừng xa”.

Bảy tập thơ của Lê Thành Nghị đã lần lượt được xuất bản. Rừng Tràm cuối mùa đông (1986), Mưa trong thành phố (1999), Mùa không gió (2003). Sông trôi không lời (2010), Khoảng giữa những giọt sương (2016), Trong tĩnh tại và 100 sát na (2018), Hoa vàng mấy độ (2024), Thơ tuyển Lê Thành Nghị in cuối năm 2020 đánh dấu một chặng đường không mệt mỏi với thi ca từ 1973 đến 2019, 46 năm, 192 bài thơ được tuyển.

Các thi sĩ sinh ra và trưởng thành nửa sau thế kỷ XX có một con đường chung mà lịch sử đã sắp đặt cho họ. Con đường gắn bó đời mình với thời cuộc. Họ nhúng thơ vào lửa qua mấy cuộc chiến tranh ác liệt để trở về với khát vọng hòa bình. Lê Thành Nghị cũng như thế và đó là cái bình diện căn cốt của anh. Chiến tranh ám ảnh đến thơ Lê Thành Nghị tưởng như chẳng bao giờ dứt được. Đó là trách nhiệm thầm lặng của trái tim thi sĩ. Thơ anh trải dài trên những con đường nửa thế kỷ bom đạn và hành quân với bao nỗi niềm trắc ẩn, yêu thương và suy tư.

Đó là Trung du những năm lửa đỏ, Lê Thành Nghị đưa ta về với sông Lô bom đạn ngày xưa năm 1947 giờ chỉ là tiếng hát.

“Chiều chuyển quân qua đường số 2

Ngày mai đồng bằng vào mùa chiến dịch

Sông Lô giăng một câu hò tha thiết”

Nhưng sâu đậm hơn cả là đường ra trận thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà Lê Thành Nghị trực tiếp bước đi với cầu vai một anh lính binh nhì, cảm nhận được những nét riêng.

“Đường Trường Sơn trắng xóa ngàn lau

Mùa đông cứ tắt dần trên lá đỏ

Đêm tháng chạp lóe lên từng chớp lửa”.

Và đây là Tây Nguyên tháng 3/1975, điểm hẹn lịch sử cho việc chấm dứt chiến tranh.

“Đêm truyền lệnh những binh đoàn thần tốc

Đêm tháng 3 giữa Tây Nguyên náo động

Sau phút này rực rỡ mặt trời lên”.

Người ở phía dòng sông là một trong những bài thơ hay viết về chiến tranh. Ở đây Lê Thành Nghị hình dung nghìn đêm chiến tranh - nghìn đêm lửa cháy. Đó là con đường thử thách giữa sống và chết của hàng triệu người lính. Kỳ diệu thay họ đã trở về, cả theo nghĩa đen và nghĩa bóng của từ ấy. Tôi lặng thầm trước cảnh một chuyến đò đầy những người ra trận về với quê hương như một lẽ thường của đời sống; bởi vì thơ anh mang nợ với đất nước này.

“Tôi suốt đời mang nợ với đất đai

Sống ra đi đánh giặc giữ đất này

Chết nằm xuống cùng củ khoai hạt lúa

Như người đi chưa về những người không về nữa

Đang cùng tôi sang một chuyến đò đầy”. 

Sài Gòn giải phóng 30/4/1975, những tưởng chuyến đò đầy ấy chở các chiến binh về với hòa bình. Nhưng họ lại lặn lội Qua sông Hồng lên biên giới. Phía ấy dội lên súng nổ. Thơ Lê Thành Nghị lại lên biên thùy phía Bắc.

“Vừa cắm cờ dinh tổng thống Sài Gòn

Lại vượt sông Hồng về nơi súng nổ

Những chàng trai đã hóa thân thành lửa

Đang ngược Hà Giang xứ Lạng Cao Bằng”.

Các cuộc chiến tranh trong thế kỷ XX dù khốc liệt như thế, những con đường hành quân dài như thế, đi cuối đất cùng trời như thế mà ở đây vẫn nghiêng về những niềm vui ra trận.

“Ta đi cuối đất cùng trời

Chiến trường xa những niềm vui nghiêng về”.

Những niềm vui phải đổi bằng bao nhiêu máu xương liệt sỹ. Thơ Lê Thành Nghị như lắng lại trước Những đài liệt sĩ vô danh. Ở đó hương khói cuốn quanh cao hơn trời xanh là mãi mãi, ở đó có Những mặt trời bé con... gửi tin cho mẹ khi vừa thắng trận sớm nay về sau những một nghìn đêm nhớ mẹ và ý nghĩ được nung nấu trước giờ nổ súng.

“Có thể trận đánh ngày mai vỡ ngực dập đầu, bị đất đá vùi bị thiêu trong lửa.

Những mặt trời bé con vẫn ngẩng cao đầu”.

Thơ Lê Thành Nghị nhiều ý tưởng hoài niệm. Anh là một thi sĩ hoài niệm trong thơ. Những hồi ức về chiến tranh, về hòa bình, về quê hương và những người thân làm nên những bài thơ hay, đằm thắm ý tình: Kỷ niệm đường 9, Chiến tranh, Mùa lá xanh, Dưới chân cầu, Bến đò Thuận Chân, Sông Nghè gặp lại, Thu về thảo nguyên, Cha tôi, Ngày xưa, Mưa qua truông vùn, Ở chùa Quang Tự v.v... Hãy nghe anh nói về Mùa lá xanh đau đáu những bóng hình của ngày tháng cũ.

“Tôi cúi nhặt tháng ngày xa biền biệt

Góp hoang tàn làm lửa trước hoàng hôn”

Cái sự siêu hình của thời gian khi “Dưới chân cầu, năm tháng xếp sau lưng, đường dài bày trước mặt”. Một sự trở về mang lời hẹn ước năm xưa ở Bến đò Thuận Chân, không biết người xưa đi đâu mãi mãi, chỉ thấy cánh buồm nhỏ xíu xa lắc xa lơ. Thăm thẳm mịt mù mưa.

“Bờ vắng vẻ chỉ mình ta đứng đợi

Vai mang lời hẹn cũ sáng nay về”.

Tại một ngôi chùa ở chốn thật xa xôi, Lê Thành Nghị chợt cảm thấy sự huyền diệu của giới tự nhiên, của đức tin con người.

“Thoáng một chút hương thơm

Đủ làm mềm cơn gió”

Từ chiến tranh về với hòa bình, Lê Thành Nghị trở về nơi cố hương Hà Tĩnh, mảnh đất nhỏ đã sản sinh ra những thi tài của đất nước ở nhiều thời đại: Nguyễn Du, Nguyễn Huy Tự, Xuân Diệu, Huy Cận, Chính Hữu... Nhiều địa danh Hà Tĩnh đã bước vào thơ anh: Chợ huyện, Bến Giang Đình, Hương Sơn, Sông Lam, Sông Nghè, Hồng Lĩnh, Tiên Điền... Sâu đậm và đằm thắm hơn cả là các bài thơ về Tiên Điền và Hồng Lĩnh như Trăng Tiên Điền, Về lại Tiên Điền. Một nửa vầng trăng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã gần 300 năm còn có người lặn lội đi vớt nửa vầng trăng huyền thoại ấy mà chẳng bao giờ vớt được trên những dòng sông của thi ca. Cũng như cái siêu hình của tiếng kêu khan rơi xuống cát Tiên Điền khi chim bay về núi vì sự chia ly của vầng trăng, của người một xe trong cõi hồng trần.

“Người đi mãi trăng theo đi một nửa

Ta lội tìm vớt nửa trăng lên”.

Thơ Lê Thành Nghị qua nhiều miền quê đất nước theo cuộc đời xuôi ngược của anh. Đáng kể nhất là những bài thơ về Hồ Tây, mùa thu, Hà Nội. Lê Thành Nghị có cách nói và chỗ đứng riêng của mình: Ký ức về mùa thu Hà Nội, Chùa Trấn Quốc, Mùa thu đến rồi đi, Hồ Tây... Mùa thu trong anh là những cảm thức tinh tế về hoa trắng rơi lặng lẽ, nỗi buồn thu trong như nắng lọc, mỗi bước người đi miên man trên hoa sữa rụng., luênh loang mặt hồ xanh mùa thu. Bỗng chốc mùa thu hiện hình như một giấc mơ sau khi tà áo dài thiếu nữ Hà thành xuất hiện.

“Tháng mười nhẹ như cầm trên tay được

Áo dài bay cây đứng ngẩn bên đường”.

Ở chùa Trần Quốc khi người ta mơ hồ “luân hồi tràng hạt trôi vô định, một cõi nhân gian kịp hóa vàng”, chợt tỉnh giấc giữa một hoàng hôn không có tuổi của một kiếp người

“Tiếng mõ chợt còn rồi chợt mất

Áo nâu làm nhẹ cả hoàng hôn”

Tôi không nhớ có bao nhiêu miền quê xứ xở của đất nước Việt Nam đã vào thơ của anh, cả Mạc Tư Khoa xa xôi nơi anh từng du học. Ở đâu cũng thấy một tấm lòng yêu thương và trắc ẩn của con người với lối phô diễn thật bình dị và điềm đạm.

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) có lần giải nghĩa hai chữ Trung Tân như sau: “Trung là đứng giữa không chênh lệch. Giữ vẹn được điều thiện là trung. Tân nghĩa là cái bến. Biết chỗ đáng đậu là bến chính. Không biết chỗ đáng đậu là bến mê (Nguyễn Bỉnh Khiêm: Từ trong di sản, NXB Tác phẩm mới - 1981 trang 37-38)

Lời giải thích này của bậc đại nho khiến tôi liên tưởng đến nhân cách  và thơ Lê Thành Nghị. Thơ anh giống như con người anh vậy. Điềm đạm, phong nhã và tri túc. Một sự chừng mực khi trang trải nỗi lòng. Đó là một điều không phải dễ đối với người làm thơ. Bởi thế cho nên cấu tứ các bài thơ anh thường chặt chẽ, ý tưởng rõ ràng, khi cần đằm thắm và đang lúc thăng hoa anh biết ngắt nhịp đúng lúc, làm nên cái điểm rơi của say, của vô thức. 

Tôi biết danh xưng Lê Thành Nghị từ năm 1971, khi làm luận văn tốt nghiệp Những tìm tòi nghệ thuật của thi ca Việt Nam hiện đại. Giáo sư Lê Đình Kỵ bảo tôi hãy tham khảo luận án Những thành tựu của thi ca Việt Nam hiện đại 1945 - 1965 do 3 người thực hiện, mỗi người viết một phần riêng là Lê Thành Nghị - Bế Kiến Quốc - Nguyễn Văn Long - ba chàng thi sỹ choáng men thơ. Luận văn của Lê Thành Nghị bàn về chất hiện thực và chất trí tuệ của thơ Việt Nam hiện đại đã đạt điểm xuất sắc.

Bản luận án của anh được viết tay với lối chữ đứng thẳng, ngay ngắn và chuẩn mực. Anh bảo thời sinh viên mê thơ Lưu Quang Vũ. Vũ ám ảnh anh như một bạn thơ chân thành. Làm thơ cốt không phải tả cảnh mà ở chỗ tình người tình đời ẩn sâu trong đó. Lê Thành Nghị sinh ra trong một gia đình nho học có truyền thống ở Can Lộc với 5 đời làm nghề dạy chữ. Anh vào bộ đội tháng 1/1972 từ Viện Văn học.

Sau 1975, từ tạp chí Văn nghệ quân đội, Lê Thành Nghị khăn gói lên tàu liên vận sang Nga làm nghiên cứu sinh văn học tại trường đại học danh giá nhất Liên Xô thời đó - Đại học Tổng hợp Lomonosov  - nơi có ngôi sao đỏ sáng lấp lánh giữa trời đêm Mạc Tư Khoa, đặt trên đỉnh tháp của lâu đài khoa học như là biểu tượng của trí tuệ và niềm tự hào Nga. Tại đây, Lê Thành Nghị bảo vệ thành công luận án tiến sĩ văn chương với đề tài điển hình hóa trong văn học. 1982 từ nước Nga trở về tiếp tục công việc văn chương trên cương vị là một người lính.

Đối với các nhà thơ, dù có nói một ngàn lần cuộc đời là một giấc mơ cũng chưa đủ. Bởi vì họ thường không mong đợi điều gì ngoài thơ; cao hơn thơ. Anatole France (1844-1924), người đã miêu tả tuyệt vời vườn Luých xăm bua vào ngày đầu tháng 10 khi lá vàng rụng từng chiếc từng chiếc trên vai trắng ngần các pho tượng, có lần nói rằng: Đặc tính của vinh dự là không có ích lợi gì cả (Anatole France - Sách của bạn tôi, NXB Văn học - 2018 - Trang 98-132).

Tôi nghĩ Lê Thành Nghị làm thơ dâng hiến cho đời đâu phải vì một lợi ích gì. Anh yêu thơ và làm thơ giống như trời thì xanh và mây thì trắng, như sông Lam và bến Giang Đình nước chảy chẳng bao giờ gầm thét và vơi cạn ở quê anh.

Lê Thành Nghị đứng chân trên nhiều lĩnh vực văn chương. Nhưng có lẽ thơ thể hiện rõ nhất tâm tình và bản lĩnh của anh.

Khuất Bình Nguyên

Tin liên quan

Tin mới nhất

Các ngân hàng trung ương liên tục mua vàng

Các ngân hàng trung ương liên tục mua vàng

Kết quả khảo sát mới từ Diễn đàn Các tổ chức Tài chính và Tiền tệ Chính thức (OMFIF) cho thấy các ngân hàng trung ương trên toàn cầu đang ngày càng ưu ái vàng như một công cụ bảo vệ trước biến động địa chính trị, lạm phát và sự suy giảm niềm tin vào đồng USD.