Về nguồn du ký Ninh Bình nửa đầu thế kỷ XX

Tỉnh Ninh Bình có nhiều di tích lịch sử, nhiều danh lam thắng cảnh như đế đô Hoa Lư, quần thể danh thắng Tràng An, núi Dục Thúy - Non Nước, Bích Động, Hải Nham, Cúc Phương, Cổ Lộng, đền thờ vua Đinh, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không, Áp Lãng chân nhân… Hơn nữa, tỉnh Ninh Bình lại nằm trên đường huyết mạch - dưới thời phong kiến thường gọi “con đường thiên lý”, hồi đầu thế kỷ gọi là “Đường Thuộc địa số 1” - rất thuận tiện cho giao thông và mở các tuyến du lịch. Có thể nhờ vậy mà ngay từ hồi đầu thế kỷ đã có nhiều văn nhân qua thăm và để lại nhiều trang du ký sinh động. Ở đây chúng tôi nhấn mạnh thêm thể tài du ký với ý nghĩa những trang ghi chép về các chuyến du ngoạn, những chuyến tham quan, du lịch được viết dung dị theo phong cách văn chương hồi đầu thế kỷ XX.

Một trong những trang du ký bằng chữ Quốc ngữ sớm nhất viết về Ninh Bình là tác giả Đạm Trai với bài Ký núi Dục Thúy (Tạp chí Nam Phong, số 28, tháng 10/1919). Bài viết ngắn gọn với đoạn mở đầu mang tính chất giới thiệu khái quát:

“Trên con tường thành, dưới có chùa Non, sông Vân sông Gián lượn quanh, núi Hạc núi Diều trông lại. Núi Dục Thúy là một nơi thắng cảnh tỉnh Ninh Bình, tục gọi là Non Nước; đời vua Thiệu Trị đổi gọi là Hộ Thành sơn. Núi bao nhiêu tuổi, mừng gặp chủ đã lắm, từng thay chủ đã nhiều, mà đợi chủ cũng chẳng ít… Cây cối rườm rà, khói nhang nghi ngút, cổ kim đề vịnh biết bao!”...

Sau khi biểu dương công lao ông Tuần phủ Từ Cúc Nhân đã chăm lo sửa sang, chỉnh đốn lại nơi cổ tích, tác giả Đạm Trai đã có thơ đề vịnh: Nước biếc rêu xanh lẫn cỏ vàng,/ Trơ trơ trải mấy cuộc tang thương?/ Cùng Diều, Hạc sẵn màu thanh tú,/ Đem cúc, tùng thêm vẻ điểm trang./ Tháp báu đài câu nào cổ tích?/ Miếu cô điện thánh chỉ tàn hương!/ Non nước còn có người non nước,/ Há dễ từ xưa một họ Trương...". 

Ở bài thơ này tác giả vừa đề vịnh phong cảnh vừa ngụ ý nói rằng còn có kẻ hậu sinh nối được chí Trương Hán Siêu (? - 1354), người đã viết Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký đầy thi vị.

Trong một trường hợp khác, tác giả Trần Thuyết Minh với bài Nam Tống du đàm (Nam Phong, số 61, tháng 7/1922) có thêm phụ đề Một buổi đi chơi có hy vọng về tiền đồ kinh tế, kỹ nghệ, ngôn ngữ, văn chương, phong tục, xã hội nước nhà lại phác họa cảnh quan núi Non Nước, rồi từ đây đã mở ra một chuyến du ngoạn khác:

“Ngày mười hai tháng tư năm Nhâm Tuất (1922), ký giả qua cảnh Ninh Bình thăm người bạn cũ… Hôm ấy là ngày chủ nhật, bấy giờ hơn bảy giờ chiều, tôi liền bảo bạn: "Này bác ơi, ta kíp tìm phương giải nhiệt, không thì chết ngốt mất thôi… Tôi muốn rằng ta nên tìm chỗ thanh cao thoáng đãng,  thu hấp lấy không khí thuần nhất tinh lương để nuôi cho linh hồn thân thể… À, mà phải đấy, ta lên non Dục Thúy mau lên".

Nói rồi đề huề dạo bước ra đi, khi lên đến đỉnh Thúy Sơn thì bóng nga cũng vừa rẽ bức trướng mây mà tưới xuống nhân gian một trận mưa kim ngọc, khiến cho muôn vật thảy đều khởi sắc sinh tình. Thốt nhiên nghe thấy một luồng những tiếng xoang xoảng âm âm, theo đông bắc phong mà đến như thể những hạt mưa kim ngọc ấy va vào nhau mà vang ra vậy"...              

Sau khi nghe tiếng chuông, tác giả kể lại những ấn tượng và ý nguyện đến tận nơi có cái chuông:

“Chúng tôi ngồi trên đỉnh núi cho đến lúc tiếng chuông không còn đánh nữa mà sông núi gió trăng cũng đã chứa chan những giác quan du khách, bấy giờ chúng tôi mới tạm biệt cái thế giới thanh cao ấy, mà trở về chỗ trần gian náo nhiệt nghỉ ngơi. Nhưng tôi thật không thể nào mà yên gối được, bởi vì phần thì bức tranh sơn thủy hãy còn lưu ảnh ở trước mắt, tiếng chuông êm ái hãy còn lưu thanh ở bên tai, phần thì cái thần hy vọng những toan triệt phá bức tường đêm dằng dặc, để mau ngó thấy vừng hồng nhật rừng rực treo trước đông song, soi đường cho thần hy vọng đến coi cái chuông làng Tống Xá”...

Về nguồn du ký Ninh Bình nửa đầu thế kỷ XX - 1

Đầm Vân Long, Ninh Bình 

Rồi tác giả cũng đi đến nơi cần đến nhưng lại chú ý trước hết tới âm sắc, giọng nói đặc biệt của người dân nơi đây, sau nữa mới đến tận ngôi chùa có cái chuông vang xa kia để thỏa mãn sự hiếu kỳ:

“Làng Tống Xá này đến cái khoa ngôn ngữ mới lại ly kỳ đặc biệt lắm nữa, nghe họ nói tưởng có khi cười đến vỡ bụng. Bấy giờ tôi đi đến một quãng đường lội, tôi đương ngần ngừ muốn qua, bỗng có một người kêu to lên rằng: “Chỗ này lắm đĩa đấy, ông không thể lội được đâu; tôi xin chở thuyền ông đi vậy!".

Tôi nghĩ thầm: Quái lạ chửa! Sao lại có đĩa ở đâu mà dìm xuống chỗ đường lội như thế, sau vào làng thấy gọi "lấy đỉa đựng trầu ăn” tôi mới hiểu rõ ra rằng: bao nhiêu những tiếng thuộc về dấu (~) thì họ nói ra dấu (?), mà bao nhiêu tiếng thuộc về dấu (?) thì họ nói ra dấu (~) cả; sau nữa xét cho kỹ ra thì trừ hai giọng trên kia còn bốn giọng nữa họ nói ra đều có ý khuynh hướng về dấu (?) hết, vì tôi thấy các cậu học sinh chào hai tiếng "lẩy củ” rồi thời về (...).

Tôi bảo dẫn tôi lên gác chuông coi, thoạt lên đến nới tôi lấy làm lạ là cái chuông này về phần hình thức so với nhiều quả chuông khác thì rất là bé nhỏ không thấm vào đâu, đo chiều cao được có chín tấc Nam ta, mà đường kính mặt dưới thì có sáu tấc, chuông không có chữ niên hiệu, mà cũng không có tên người đứng hưng công.

Tôi bảo đánh cho tôi nghe thì y không dám đánh mạnh, bảo rằng không phải lúc có lễ phẩm mà đánh thì trong làng tất xảy ra sự chẳng hay; tôi cũng phải lợi dụng lấy câu tục ngữ “Nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục” mà không trái tâm lý của làng người ta.

Chuông tuy không dám đánh mạnh mà tiếng chuông âm ưởng linh lung, mỗi tiếng đánh ngân ra đến gần một phút. Lại cứ như lời y nói, nếu theo chiều gió dứng cao mà nghe thì cái năng lực của tiếng chuông đi xa được đến mười cây lô mét, nghĩa là xa hơn núi Dục Thúy Ninh Bình vài cây lô mét nữa kia”...

Cái buổi du lịch này, cứ coi bề ngoài thì không đáng đem ra công cáo, nhưng vì có cái hy vọng về tiền đồ kinh tế kỹ nghệ, ngôn ngữ văn chương, phong tục xã hội nước nhà, mà cái nghĩa vụ lương tâm của chúng tôi nó xui nên phải viết vậy" (Tuyển in trong Du ký Việt Nam - Tạp chí Nam Phong (1917-1934), Tập I, Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm, giới thiệu)...

Thông thường khi đi thăm những nơi danh lam thắng tích, du khách không chỉ nhìn xem phong cảnh mà muốn hiểu sâu hơn ngọn nguồn những truyền thuyết, sự tích và danh nhân có liên quan. Vì thế các trang du ký vừa có những đoạn tả cảnh, ghi lại câu chuyện dọc đường và cảm xúc của tác giả vừa có thêm nhiều đoạn khảo tả, dẫn giải, bình giải lịch sử. Điển hình cho cách viết này là Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến (1874 - 1941) với bài du ký Qua chơi mấy nơi cổ tích đất Ninh Bình (Nam phong, số 94, tháng 4/1925). Hãy xem tác giả ghi chép chi tiết niềm vui ngày khởi hành ngay từ dòng mở đầu:

“Trời xuân quang đãng, gió xuân phơi phới, tiếng còi xe hỏa rúc tu tu, ấy là chuyến xe tự ga Hà Nội chạy Ninh Bình buổi sáng sớm 6 giờ hôm 20 tháng 3 năm Ất Sửu (tức ngày lễ Phục sinh 12 tháng 4 năm 1925). Ngày hôm ấy cảnh xuân vũ mới đổi ra cảnh xuân tình nên hành khách tới tấp lên xe, kẻ trảy đền Sòng, người đi bến Thủy, người thì xôn xao hỏi thăm động Hương Tích, kẻ thì rộn rịp qua chơi núi Thôi Ngôi, rõ ra cảnh tượng bình minh, chiều xuân vui vẻ, ai ai cũng muốn qua thăm những nơi cảnh Phật bầu trời.

Chúng tôi tám người cũng cùng đi chuyến xe ấy, định vào du lãm các danh lam thắng cảnh đất Ninh Bình. Khi xe ra đi vì đông khách chật chỗ ngồi, chúng tôi phải lên bên toa trên cùng ngồi đàm đạo. Câu chuyện gần xa, câu văn kim cổ, người thì ra ngắm cảnh xuân sơn đôi bên dọc đường, như gần như xa, như đưa như đón, rõ ra vẻ “xuân sơn như tiếu”, vẻ mây nhàn nhạt, vẻ hoa hớn hở, hình như đon đả tươi cười chào đón khách du xuân”…

Từ việc mô tả khái quát địa mạo Ninh Bình, tác giả đi đến phác vẽ cảnh quan động Nham Sơn trên núi Địch Lộng:

“Nguyên tỉnh Ninh Bình này từ đời nhà Mạc lấy phủ Tràng An, phủ Thiên Quan làm nơi Thanh Hoa ngoại trấn, phân địa giới từ núi Tam Điệp trở vào trong gọi là Tây Việt, tức là đường trong, trở ra ngoài gọi là Đông Việt, tức là đường ngoài, là một nơi trấn thủ trong ngoài giáp giới. Sở tại Ninh Bình nay đóng ở Vân Sàng, phố phường mở ra buôn bán đông đúc.

Chung quanh tỉnh không biết bao nhiêu là các nơi danh sơn thắng tích, giá có rỗi thì giờ mà du lãm, thì sơn kỳ thủy tú cảnh thiên nhiên chưa dễ mấy khi đã lịch lãm cho cùng. Vả lại tỉnh Ninh Bình về phía tây nam giáp Thanh Hóa có nhiều dẫy núi đá chạy dài ra đột ngột đúng giữa cánh đồng bằng, không khác gì như những cù lao ở ngoài bể Hạ Long, ý chừng những nơi này cũng là bể khi xưa, trải bao phen tang thương biến cải, nên nay mới thành ra những cánh bình nguyên bát ngát mà lại có núi đá mọc lô xô như thế chăng?"...

Cùng với những đoạn ghi chép về danh nhân và sự kiện lịch sử liên quan đến nhiều địa danh nổi tiếng ở Ninh Bình, tác giả tiếp tục kể về chuyến thăm Hoa Lư - Tràng An:

“Khi thuyền đỗ bến ghé lên bờ, đi theo một con đường nhỏ những đá lổn nhổn mới vào đến Tràng An. Khi đi vào trông bên đường làng nọ đến làng kia, xóm này đến xóm khác, có vườn có ao, có giếng có chợ, nhà ở san sát, thôn đồng dã lão kẻ chạy đi người chạy lại, coi ra chiều chất phác cổ phong.

Ngoài bến sông thì thuyền ngư phủ lênh đênh quăng chài trên ngọn gió, bên bờ ruộng thì lũ mục đồng nhẩy nhót thổi sáo dưới bóng cây, coi ra vẻ sinh hoạt tự nhiên, vui vẻ đông đúc, mới nhận ra rằng chốn này là chốn kinh đô đời Đinh đời Lê khi xưa, thì những hoàng đồng bạch tẩu sinh tụ ở chốn này, chẳng phải là những di dân theo ngọn cờ lau của vua Đinh khi xưa đó hay sao? Chẳng phải là những dòng dõi quân Thập đạo của vua Lê đã từng đem đi đánh quân Tống Hầu Nhân Bảo đó hay sao? Trong lòng cảm tưởng bồi hồi khiến ta lại càng nhớ đến sự nghiệp của vua Vạn Thắng và tài năng của Thập đạo tướng quân!”…

Với cảm hứng hướng về cội nguồn dân tộc, học giả Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến vừa tự hào về truyền thống vừa sống trong niềm vui của thời khắc hiện tại, vui cùng sông nước và vui cùng bè bạn gần xa:

“Ấy cuộc đi chơi này chúng ta đối về phương diện lịch sử thì ai là chẳng cảm tưởng đến sự nghiệp vua Đinh, vua Lê; mà đối về phương diện cổ tích thì chúng ta hãy còn trông thấy có cổ miếu, có sơn lăng, ai là chẳng nức lòng kính ngưỡng. Lại hỏi đến dấu vết thành Hoa Lư, trông ra bờ tre rặng đá, trải biết bao phen mưa nắng, nên ta cũng chưa nhận ra được cái dấu vết cổ thành.

Hỏi đến đỗng Hoa Lư, nghe nói bốn mặt núi đá chập chùng, lại có ngọn tiểu khê tự trong đỗng chảy ra sông Hoàng Long, chỗ nước chẩy ấy là Xuyên Thúy đỗng, tục gọi là hang Luồn, vào trong có tòa cổ miếu, chính là chỗ vua Đinh dưỡng hối (lúc còn ẩn náu) khi xưa. Bên ngoài đỗng lại có núi Trạng Nguyên, đá hòm sách, phong cảnh cũng đẹp. Lại còn lăng vua Lê Đại Hành ở núi Phẩm Sơn thuộc về xã Yên Hạ, cũng chưa kịp đến chiêm bái.

Khi bấy giờ trời hôm bảng lảng, bóng ác vàng đã gác núi chênh chênh, nên chúng tôi phải cáo từ trở ra. Khi qua xã Yên Thượng, thầy thủ quĩ ở làng ấy có mời vào nhà gần đấy uống nước… Trong lúc phẩm trà ngồi đàm đạo qua mấy câu rồi từ giã ra thuyền. Khi ra đến bến sông thì trời đã xâm xẩm tối, lại xuống thuyền mở chèo ra đi theo con sông Hoàng Giang trở về Ninh Bình"…

Theo lời kể trong bài du ký thì chuyến du ngoạn bằng thuyền ấy đến chừng 2 giờ sáng mới về đến núi Non Nước. Sau khi cùng các văn hữu thăm cảnh nơi đây và ôn lại mấy bài thơ văn của Trương Hán Siêu (? - 1354), Phạm Sư Mạnh (thế kỷ XIV), Lê Thánh Tông (1442 - 1497), tác giả thuật tiếp về vai trò khẩn hoang của Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) và chuyến du hành về Phát Diệm - Kim Sơn:

“Xe đi từ tỉnh lỵ Ninh Bình đến Kim Sơn chừng độ 28 ki-lô-mét, lại qua những làng như Phúc Nhạc, Phú Vinh cho đến Phát Diệm, đều là những nơi dân cư đông đúc mà phần nhiều là theo về Thiên Chúa giáo đến quá nửa, chỉ một vài phần là bên lương mà thôi.

Các làng giáo dân ở vùng này cũng thịnh vượng lắm, làng nào cũng có nhà thờ to, mà thường có khi trong một làng, một vài họ lại họp nhau làm một cái nhà thờ nhỏ nữa, cho nên có làng dựng ra đến hai ba cái nhà thờ. Từ làng nọ đến làng kia thường cách ra một con ngòi hoặc một con sông nhỏ, đã có cầu cống đi thông luôn, sẽ biết rằng khi mới khai hoang thiết lập ra huyện này thì tiền nhân ta cũng đã tốn công phu kinh hoạch lắm thay!

Khi xe đến bến Từ Chính lại phải qua phà sang sông, chỗ khúc sông ấy hiện đương khởi công bắc cầu để đi qua lại cho tiện. Sang qua phà rồi lại đi qua một dẫy phố dài, hàng phố mở mang buôn bán đông đảo, trên bến dưới thuyền, hiệu ta tiệm khách, thổ sản hàng hóa không thiếu một thứ gì, đó là về chợ Phát Diệm, cũng là một nơi đô hội nho nhỏ. Đi hết dẫy phố chợ rồi rẽ vào thăm nhà thờ Phát Diệm…

Nhà thờ này là tự ông Trần Lục (ta thường gọi là cụ Sáu) lập nên. Khi mới thoạt vào lên xem phương đình, tức là cái gác chuông ở về mặt trước, cái phương đình này làm từ năm 1899, quy chế cũng cao, chung quanh xây đá hoa và các bao lơn con tiện toàn bằng đá chạm trổ mài giũa rất là kỹ càng, trên gác có treo cái chuông to làm từ năm Thành Thái, Canh Dần (1890).

Dân ở đấy nói rằng trên nóc phương đình này trước kia cụ Sáu định lợp bằng đá đã có làm sẵn một cái nóc bằng đá để chực đưa lên, nhưng chưa kịp đưa lên thì cụ mất, thế mà về sau không ai nghĩ được kế gì để đưa lên được, phải chịu lợp bằng ngói vậy. Trước sân nhà thờ về phía trong phương đình một tí là cái mộ cụ Sáu an táng ở đó. Nhà thờ làm theo lối thờ dọc, cực kỳ nguy nga tráng lệ.

Trước nhà thờ ở giữa đề chữ rằng: “Thẩm phán tiền triệu”. Bên tả đề rằng: “Thập ngũ văn khôi”. Bên hữu đề rằng: “Niệm châu đồ tượng”. Khi vào đến trong nhà thờ xem thì thực là rộng rãi, bề ngang 6 hàng cột, bề dọc hơn 10 hàng cột, mà hàng cột giữa cao chừng đến 20 thước, thuần một thứ gỗ lim to gần đẫy hai vòng cánh tay, mà đều sơn thiếp vàng son rực rỡ.

Chung quanh nhà thờ xây đá xanh có chỗ chạm rồng chạm phụng, rất là công phu. Sân sau có chỗ đắp đá làm hang núi giả để làm chỗ cầu lễ. Bên tả lại có cái nhà đá, cột toàn bằng đá mài dũa nhẵn thín. Dân ở đây nói rằng cụ Sáu định làm sinh phần ở giữa trong nhà đá này, nhưng về sau lại táng ở trước sân nhà thờ là chỗ công chúng quan chiêm để tỏ lòng thương nhớ.

Bên hữu lại còn hai cái nhà nữa, cái thì cột gỗ lim chạm lộng, mỗi nhà một kiểu, chạm trổ khác nhau, vẫn còn có cái vẻ Đông phương quốc túy. Nhà nào cũng có bệ đá hoặc sập đá cực to, để làm chỗ cho các giáo sĩ cùng các giáo dân cầu nguyện. Nghe nói khi cụ Sáu khởi công dựng ra cái nhà thờ này, các giáo dân phục dịch đều mang lương thực đến ăn để mài dũa các miếng đá hoa, các chấn song con tiện rất là công phu, cho nên mới sáng lập ra được cái công trình lớn lao như thế, dễ thường ở xứ Bắc Kỳ này không có nhà giáo đường nào to lớn bằng nhà thờ Phát Diệm.

Nghe nói cụ Sáu nguyên là người Thanh Hóa, theo về Thiên Chúa giáo đã đỗ được sáu chức, nên gọi là cụ Sáu, nhân lúc Pháp Nam mới giao thiệp chừng vào hồi Đồng Khánh sơ niên, cụ có công giúp cho nhà nước Bảo hộ, được làm Khâm sai tuyên phủ sứ, sau thăng chức Thượng thư, quyền thế hách dịch. Nay ta xem qua cái nhà thờ này sẽ biết phi là người có thao lược quyền mưu, thì sao hay dựng được cái công trình lớn lao như thế.

Chúng ta hôm nay qua thăm trên phiến đá mới khai thác vào khoảng một trăm năm nay, mà trông thấy cái cảnh tượng phồn thịnh này, nào địa lợi mở mang, nhân dân sinh tụ, nào nơi nhà thờ cao ngất trong các làng, lại càng nhớ đến cái công khai hoang lập ấp của ông Nguyễn Công Trứ đối với xứ này thực là có công nghiệp lớn lao đáng cùng với non sông này lưu làm kỷ niệm…". 

Theo một cách hình dung khác, tác giả Thiện Đình với bài Ninh Bình phong vật chí (Nam Phong, số 163, tháng 6/1931) lại kết hợp cả những quan sát tai nghe mắt thấy với nguồn kiến thức khảo cứu qua sách vở. Trên thực tế đây là bài tổng thuật trên các phương diện địa lý - lịch sử - kinh tế - văn hóa vùng quê Ninh Bình, có phần gần với cách biên soạn Đại Nam nhất thống chí thời Nguyễn.

Ở đây Thiện Đình cũng bình giải về diên cách và chia ra các phần Nói về hình thế - Nói về phong tục - Nói về cổ tích - Nói về danh thắng - Nói về danh nhân liệt nữ… Như vậy độc giả có thể nhận được nhiều thông tin bao quát về vùng văn hóa Ninh Bình song tính chất miêu tả cụ thể sinh động lại giảm đi đáng kể. Đôi khi vai trò cái tôi chủ thể tác giả có xuất hiện cũng chỉ là thấp thoáng:

“Năm Thành Thái thứ mười bảy, cuối tháng ba, tôi đi qua tỉnh Ninh Bình lên chơi núi, thấy bài thơ của quan Tuần phủ Trần Tử Mẫn khắc ở trên đá, lời lẽ thanh tao. Ngài quê ở Gia Định cũng là một tay thi bá vậy. Nhân ngẫu hứng họa nguyên vận một bài gọi là có chút mừng để tả cái tình cảm đối với giang sơn vậy. Lúc ấy Nguyễn Thiếu Mai tiên sinh đương chức Đốc học cho bài thơ ấy làm thưởng thức"…

Qua những trang du ký viết về Ninh Bình giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX có thể thấy các văn nhân thời bấy giờ đã rất chú trọng các di tích lịch sử và chốn danh lam thắng cảnh. Trong bối cảnh chế độ thực dân nửa phong kiến và điều kiện giao thông chưa phát triển, các trang du ký trên góp phần phổ biến kiến thức, khơi gợi tinh thần yên nước, niềm tự hào dân tộc thông qua chuyến thăm một vùng quê. Đó cũng là những trang ghi chép cụ thể, sinh động, giúp cho chúng ta hình dung rõ hơn cảnh quan tỉnh Ninh Bình - một vùng đất giầu truyền thống văn hóa và tiềm năng du lịch...

PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn (Viện Văn học, Phó Chủ tịch thường trực Hội Thơ Đường luật)

Dã quỳ và em
Dã quỳ và em

Ngày tôi vào Tây Nguyên nhận công tác - cách đây tròn 39 năm - ở đâu cũng thấy dã quỳ. Đấy cũng là lần đầu tiên tôi...

Tin liên quan

Tin mới nhất

Nhiều điểm mới trong Lễ hội Hoa Phượng Đỏ Hải Phòng 2024

Nhiều điểm mới trong Lễ hội Hoa Phượng Đỏ Hải Phòng 2024

Lễ hội Hoa Phượng Đỏ của Hải Phòng 2024 được tổ chức với quy mô cấp thành phố gắn với Kỷ niệm 69 năm Ngày Giải phóng Hải Phòng (13/5/1955-13/5/2024) và đón nhận danh hiệu Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long-Quần đảo Cát Bà của Uỷ ban Di sản thế giới UNESCO.

Lễ hội Du lịch Hà Nội năm 2024: “Thăng Long – Hà Nội, Thủ đô quyến rũ”

Lễ hội Du lịch Hà Nội năm 2024: “Thăng Long – Hà Nội, Thủ đô quyến rũ”

Lễ Hội Du Lịch Hà Nội năm 2024 hứa hẹn sẽ mang tới cho du khách và nhân dân địa phương những trải nghiệm đầy màu sắc cùng nội dung phong phú, đa dạng. Với nhiều lần tổ chức thành công, Lễ hội tập trung vào khai thác những giá trị độc đáo, đặc sắc của di tích, làng nghề, ẩm thực Hà Nội và các địa phương.