Đưa con đi học và nói chuyện về môn lịch sử

Xã hội vận hành ngày một phức tạp hơn, nhưng thế giới tinh thần của những đứa trẻ đi học lại dường như ngày một lạnh lùng đơn giản hơn...

1.  Chắc chắn không mấy ai chưa từng nghe bài hát này: “Hôm qua em tới trường/ Mẹ dắt tay từng bước/ Hôm nay mẹ lên nương/ Một mình em tới lớp/ Chim đùa reo trong gió/ Cá dưới khe thì thào/ Hương rừng chen hương cốm/ Em tới trường hương theo/ Trường của em be bé/ Nằm ở giữa rừng cây/ Cô giáo em tre trẻ/ Dạy em hát rất hay/ Hương rừng thơm đồi vắng/ Nước suối trong thầm thì/ Cọ xòe ô che nắng/ Râm mát đường em đi...” (Ca khúc Đi học, nhạc Bùi Đình Thảo, thơ Hoàng Minh Chính). Thế hệ sinh vào những năm 1970 như chúng tôi thì thuộc lòng, thuộc vì hát trên lớp và nghe trên đài suốt, mà hồi ấy ngoài nghe đài thì cũng chẳng biết nghe gì.

Những câu hát kể chuyện đi học của một em bé ở vùng trung du miền Bắc, có thể em là người thuộc tộc thiểu số Mường, Sán Dìu hay Dao gì đó. Em đi học và được mẹ “dắt tay từng bước” đưa đi. Chỉ đến khi người mẹ bận việc nương rẫy thì em mới đến trường một mình, tự đi, và được tự cảm nhận toàn bộ sự giao hòa tuyệt diệu của thiên nhiên đồng rừng ở trong mình.

Thế hệ chúng tôi, những đứa trẻ sinh ra lớn lên ở thành thị khoảng sau năm 1975, mặc dù không được hưởng cảnh thần tiên như em bé trong bài hát, nhưng ít ra, cũng đa phần tự đi học, không có ông bà cha mẹ cặp kèm dắt tay. Dễ hiểu thôi, trong cái thời bao cấp khốn khó ấy, người lớn bận tối mắt tối mũi đi làm hoặc chạy chợ kiếm cơm, chẳng mấy ai có thời gian đưa trẻ đi học. Vả lại trường học thường rất gần nhà, trẻ có thể tự đi bộ đến trường. Lên cấp 2, cấp 3, nếu trường ở xa hơn thì đã có xe đạp, cứ thế nhấp nhổm ngoáy mông guồng chân trên xe Phượng hoàng, Thống nhất, Mifa, hoặc mini Nhật, tự đi tự về. Niềm vui của tuổi thơ một thời cũng nằm ở đó một phần, quãng đường từ nhà đến trường rồi từ trường về nhà. Không có người lớn đi kèm, bọn trẻ tha hồ trêu chọc cấu véo nhau, những trò đùa dại oái oăm nhất cũng không từ. Hòa bình hơn thì chúng bá vai bá cổ nhau, khi đi bộ và kể cả lúc đạp xe, chuyện trên trời dưới đất ríu ran suốt những cung phố. Hoắng lên, chúng rủ nhau tạt ngang để đi đá bóng, tắm sông, hay vặt trộm quả.

Bây giờ, những thập niên đầu thế kỷ XXI, cái cảnh học sinh tự đi học ấy, ít nhất ở các thành phố lớn, gần như không còn nữa. Các bậc làm cha làm mẹ, dù có bận bịu quay cuồng mưu sinh đến mấy thì cũng vẫn phải dành ra thời gian để đưa đón con đi học. Học chính và học thêm, ở trường và ở các lớp luyện thi. Sang thì đi ô tô, nhưng phổ biến là bằng xe máy.

Đưa đón con đi học, điều đó gần như là bắt buộc. Bởi ít có cha mẹ nào yên tâm để đứa trẻ tự điều khiển xe giữa một biển giao thông nhốn nháo, lắm bất trắc. Thà gánh lấy sự mất thời gian và mệt mỏi còn hơn là luôn nơm nớp lo sợ về chuyện con mình ở trên đường. Hơn nữa, đưa đón con đi học cũng để tiện việc cho nó ăn uống nếu lỡ những buổi học chính học thêm có nối nhau liên tục. Và cứ thế, con đường từ nhà tới trường tới lớp, rồi từ lớp từ trường về nhà của một học sinh phổ thông ở thành phố lớn bây giờ, như Hà Nội chẳng hạn, là con đường ngồi trên yên xe phía đằng sau cha mẹ. Nó không nhìn mặt mà nhìn gáy các bậc sinh thành. Nó cũng chẳng ríu ran nói chuyện được với cha mẹ như em bé trong bài hát Đi học của nhạc sĩ Bùi Đình Thảo, vì sự tập trung của người điều khiển xe - biết đâu đấy, lại có một bà đi giày gót nhọn luống cuống đạp nhầm chân ga ô tô, hoặc một ông xe máy say rượu bất ngờ từ ngõ rồ ra - và cả vì sự ô nhiễm tiếng ồn trong không gian đô thị.

Nghĩa là đổi lại, đứa trẻ đi học bây giờ đã bị tước mất sự giao tiếp hồn nhiên với “đời sống trên đường”, sự hồn nhiên phù hợp và lẽ ra nó phải/ nên được hưởng thụ. Tôi cho rằng điều này khá quan trọng. Vấn đề không chỉ là việc đứa trẻ không được học, tập dượt kỹ năng xử lý những tình huống trên đường, mà còn là việc: ở cái hiện sinh “ngồi trên yên xe phía đằng sau” ấy, đời sống ùa vào trí não và tâm hồn nó sẽ chẳng được bao nhiêu. Thật là kỳ quặc: xã hội vận hành ngày một phức tạp hơn, nhưng thế giới tinh thần của những đứa trẻ đi học lại dường như ngày một lạnh lùng đơn giản hơn. 

“Vì tương lai con em chúng ta”, một tương lai mà chúng ta nghĩ có thể chủ động chiếm lĩnh được nhưng thật ra là đầy bất định, nhiều bậc cha mẹ (trong đó có tôi) đã tự buộc mình “xe ôm” để đưa đón con đi học. Cũng chẳng biết rồi sẽ thế nào, nhưng để cho con tự đi thì chắc chẳng mấy ai đủ can đảm. Lại đành loay hoay vật vã với cái sự “Trên đường” – tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Jack Kerouac, viết về những tay nghệ sĩ hippy lang thang người Mỹ - và ngán ngẩm với những cái giá phải trả cho sự phát triển.

Đưa con đi học và nói chuyện về môn lịch sử - 1

Ảnh minh họa

 2. Con gái út tôi đang học lớp 12, một trường THPT ở Hà Nội. Con học lớp chuyên sinh, tức là thuộc về khối khoa học tự nhiên, suốt ngày thấy học bài về các môn toán, lý, hóa, sinh, có nói chuyện với bố mẹ về bạn bè hoặc thầy nọ cô kia, những việc xảy ra ở trường ở lớp, trong giờ học này hoặc giờ học khác, thì loanh quanh cũng liên quan đến các môn toán, lý, hóa, sinh.

Cách đây mấy hôm, tôi đón con tan trường, thấy mặt con buồn rười rượi, lại có vẻ sợ sệt khi đi về phía bố. Gặng hỏi mãi thì mới lúng búng kể: đang giai đoạn kiểm tra cuối học kỳ I, con tập trung học toán, lý, hóa, sinh, không đủ thời gian để học hết mấy bài ôn tập môn sử, nên hôm nay có quay sang hỏi bài bạn trong giờ thi, bị cô giáo phát hiện và nói rằng sẽ phạt bằng cách trừ nửa tổng số điểm bài làm.

Chuyện rắc rối của con mình khiến tôi, dù không chủ ý, nhưng cứ vẩn vơ nghĩ về môn sử như một môn học đã và đang được dạy trong nhà trường phổ thông ở ta, và về lịch sử như là những sự thật đã từng diễn ra trong quá khứ.

Đầu tiên, tôi nhớ đến những ngày ôn thi đại học cách đây trên ba mươi năm. Khối C: văn, sử, địa. Cả ba môn này, hồi ấy, được dạy y hệt nhau trong các lò luyện thi: thầy ở trên bục giảng cứ chầm chậm đọc từng ý, từng câu trong nội dung lời giải đề; trò ngồi bên dưới miệt mài chép lại, từng câu, từng ý mà thầy đọc. Rồi về học thuộc lòng, và đi thi. Nếu may mắn “trúng tủ”, tức là gặp đúng đề thi mà mình đã thuộc lòng lời giải, thì không sao. Nhưng nếu bất hạnh “lệch tủ”, thì chỉ còn nước thúc thủ, treo bút. Nghĩa là ngay từ hồi ấy, và có lẽ bây giờ vẫn vậy, mấy cái môn xã hội nhân văn này vẫn được/ bị coi là những môn học thuộc lòng, học sinh có hơn nhau là hơn nhau ở độ cường ký thụ động - theo kiểu cái ổ cứng máy tính hoặc dung lượng của cái thẻ nhớ - chứ không có tư duy sáng tạo hay say mê đắm đuối gì ở đây cả. Học thuộc lòng là để đi thi, thi xong có thể quên sạch cũng chẳng làm sao hết.

Ta đang nói về môn sử, thì thật kỳ quặc, riêng cái môn này và riêng ở nội dung học và thi đại học hồi ấy: chỉ loanh quanh ở mấy giai đoạn, sự kiện thuộc về “quá khứ gần”, như việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, rồi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, rồi Cách mạng tháng Tám, rồi kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ..., và hết. Cả một quãng “quá khứ xa” thăm thẳm của lịch sử dân tộc, từ tiền Bắc thuộc qua Bắc thuộc, rồi thời kỳ độc lập với các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn... thì đều rất qua loa. Khi lịch sử đã bị như thế, sự phong phú của nó đương nhiên không còn nguyên vẹn, cả sức hấp dẫn của môn học cũng vậy. Nói cách khác, chương trình như thế, cách dạy như thế, mục đích của việc học cũng chỉ là như thế, thì học sinh phổ thông - học sinh nói chung chứ không chỉ là học sinh chuyên khoa học tự nhiên rất dễ coi nhẹ môn sử.

Ấy thế nhưng, vài năm trước thì phải, khi có ý kiến đề xuất “khai trừ” môn sử ra khỏi danh sách môn học bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông, thì đa phần dư luận xã hội lại ầm ầm lên phản đối, với đủ các lý do long trọng, to tát. Nào là giáo dục về cội nguồn và truyền thống, tinh thần yêu nước, niềm tự tôn dân tộc v.v..., tất cả phụ thuộc ở việc dạy môn sử trong nhà trường phổ thông v.v…

Thật ra lối nghĩ và cách lập luận như vậy đã xuất hiện từ sớm. Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từng viết trong nhật ký thời trẻ, đại khái: người mà không biết lịch sử dân tộc mình thì cũng giống như con trâu đi cày, cày với ai cũng được và cày trên thửa ruộng nào cũng xong. Cá nhân tôi cũng chia sẻ với quan điểm này, nhưng chỉ xin lưu ý hai điểm. Thứ nhất, nếu vẫn giữ môn sử như một môn học bắt buộc trong nhà trường phổ thông, đồng thời giữ luôn cả nội dung chương trình môn học, giữ cách dạy, cách học, cách thi môn sử như đã từng và đang là, thì kết quả nhìn thấy trước là vẫn tệ như cũ mà thôi, cái môn sử ấy.

Và thứ hai, chúng ta có dạy và học lịch sử, là dạy và học theo một mặc định về cái được dạy và được học đặc thù: những sự thật đã từng diễn ra trong quá khứ. “Sự thật lịch sử”, trên thực tế, là một khái niệm rất mơ hồ. Thời quân chủ chuyên chế, hầu như triều đình nào cũng có một bộ phận học giả, trí thức lo việc chép sử. Sử họ chép ra được gọi là chính sử, và được xem là loại tư liệu quan trọng, đáng tin bậc nhất với giới khoa học lịch sử sau này. Nhưng thật ra chúng có đáng tin nhiều lắm không, khi rốt cuộc người chép sử cũng chỉ ghi lại những “sự” mà họ cho là “thật” theo thiên khiến ý thức hệ của mình mà thôi. Và như thế thì có còn là “sự thật lịch sử” nữa  không?

Hoài Nam

Tin liên quan

Tin mới nhất

Chuẩn bị các điều kiện phục vụ khách du lịch dịp Tết Dương lịch 2026 và Tết Nguyên đán Bính Ngọ

Chuẩn bị các điều kiện phục vụ khách du lịch dịp Tết Dương lịch 2026 và Tết Nguyên đán Bính Ngọ

Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam ban hành văn bản số 3102/CDLQGVN-VP gửi Sở Du lịch; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc chuẩn bị các điều kiện phục vụ khách du lịch dịp Tết Dương lịch 2026 và Tết Nguyên đán Bính Ngọ, theo Cổng thông tin Bộ VHTTDL.