Xuân Cầu – làng danh nhân, danh tướng
Làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (cũ) còn gọi là Hoa Cầu, đến đời vua Thiệu Trị nhà Nguyễn, mẹ vua tên là Phạm Thị Hoa, gọi tên làng là Hoa thì phạm huý nên mới đọc chệch là Huê Cầu.
Sau cách mạng tháng tám năm 1945, làng Xuân Cầu thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Làng do ba thôn Lễ Cao, Phúc Thọ và Tam Kỳ hợp lại, Xuân Cầu là một quần cư có tới 10 dòng họ những lớn hơn cả là họ Nguyễn, họ Tô, họ Quản, họ Lê... Cả quần cư này sống thân ái đoàn kết và đùm bọc lấy nhau. Kể từ xa xưa những vụ đánh nhau, xô xát kiện tụng đem nhau đến trước cửa quan, hầu như không có, còn xích mích nội bộ chỉ trong chi tộc dàn xếp là ổn thoả. Người quanh vùng đều nức lòng về Xuân Cầu, một làng quê ấm áp tình làng nghĩa xóm.
Không thể gọi là một làng quê, nhất là làng quê ở vùng châu thổ sông Hồng nếu không có cây đa, giếng nước, sân đình. Mà, cây đa, giếng nước, sân đình ở Xuân Cầu cũng có nét riêng. Cây đề đầu thôn Lê Cao sum suê vươn tán rợp mát một khoảng trời. Cây bàng trước đình Phúc Thọ, tầng tầng tán lá uy nghiêm như người lính gác cho sự an bình của quê hương.
Cây đa trước cổng làng Tam Kỳ là cây đa đại thụ vươn cao, xoè tán, thả rễ. Theo người dân địa phương, cây đa này phải có trên ngàn năm tuổi, mọc vững chãi như một cây nêu xanh ngùn ngụt quanh năm. Cây nêu là cây trồng trước nhà dịp Tết Nguyên đán để mời những vong linh tiên tổ phiêu diêu về ăn Tết cùng hậu duệ. Còn “cây nêu” xanh ngùn ngụt trước cổng làng Tam Kỳ - ngọn lửa xanh quê hương bừng sáng giữa trời soi cho những ai tha hương nhìn thấy mà về.
Xuân Cầu cũng có giếng đất ven sông mà suốt năm nước trong vắt. Ở Phúc Thọ và Tam Kỳ cho đến ngày nay vẫn còn giữ được bốn khẩu giếng khơi rất sâu, thành giếng xếp bằng đá, miệng giếng quây bằng những phiến đá cổ. Mặt đá lát sân giếng đã nhằn bóng. Bốn khẩu giếng khơi này có kiến trúc hệt giếng khơi vùng Dâu, Keo xuất hiện từ thời Luy Lâu, thủ phủ đô hộ của nhà Đường.
Cổng làng Xuân Cầu. Ảnh: ST
Ba ngôi đình ở ba thôn rất cổ kính, theo người dân địa phương thì ngôi đình Tam Kỳ do tiến sỹ Nguyễn Tính, khi được phong làm giám sát ngự sử, Lễ bộ thị lang, Hộ bộ thị lang, trụ quốc công, đã về quê xây đình. Đỗ là ngôi đình có kiến trúc giống kiến trúc ngôi đình làng Cổ Pháp (Đình Bảng ngày nay). Cảm công ơn của vị đại thần có tấm lòng với quê hương, khi ông qua đời dân Tam Kỳ đã thờ ông làm thành hoàng làng. Ít nơi thờ người con quê hương đỗ đạt, có công với dẫn với nước làm thành hoàng làng để muôn đời cũng bái.
Lối vào ba thôn Lê Cao, Phúc Thọ, Tam Kỳ đều có cổng xây. Hiện nay Phúc Thọ, Tam Kỳ vẫn còn giữ được cổng xưa với kiến trúc trên lầu dưới vòm cổng. Riêng cổng Tam Kỳ, trên mặt các trụ trên lầu, dưới cổng có khắc những câu đối uyên thâm mà khí phách. Trên lầu có hai câu đối, trong đó có câu:
“Lâu khả tinh thần chích
Môn đê tứ cái dung”
Dịch nghĩa: Đứng trên lầu có thể hái được sao. Vòng cổng thấp nhưng võng xe ngựa vẫn đi qua được.
Hai trụ bên vòm cổng có đôi câu đối:
“Lư diêm lạc lợi an xã tắc
Giao dã thăng bình kiến phương lân”
Dịch nghĩa: Dân ở đây có vui có lợi, xã tắc mới yên Chốn thôn dã này có thanh bình, dân mới được thấy chim lần chim phượng (loài chim tượng trưng cho nhân đức phúc hậu).
Những phiến đá còn nằm ven sông Nghĩa Trụ, dấu tích những bàn giặt vải nhuộm thâm, một nghề rất cổ ở Xuân Cầu. Đã có câu ca từ ngàn xưa:
“Ai về Đồng Tỉnh Xuân Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Xuân Cầu nhuộm thâm”
Đồng Tỉnh đưa thuốc lào Tiên Lãng (Kiến An, Hải Phòng) đi bán khắp nơi và cũng bán ngay ở làng. Xuân Cầu thì nhuộm thẩm vải. Nghệ thuật nhuộm thật đơn giản mà rất cao siêu như câu ca kể rằng:
“Nhuộm thêm chẳng hết bao nhiêu
Chỉ một nắm đất với niêu lá sòi”
Vậy mà vải nhuộm bền và đẹp đến độ vua chọn làm đồ cống nạp. Theo sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì “Làng Bát Tràng và làng Hoa Cầu hàng năm phải cung ứng đồ cống nạp sang Trung Quốc gồm 70 bộ bát đĩa và 200 tấm vải thâm”.
Làng cổ Xuân Cầu cũng thật hữu tình. Con sông Nghĩa Trụ là phần nối tiếp của dòng Nguyệt Đức bắt nguồn từ Gia Lương, Thuận Thành (Bắc Ninh) chảy qua Như Quỳnh, Tân Quang về địa phận làng Gạo (thuộc Tân Quang) chia ra một nhánh chảy qua đê Tràn rồi qua cửa Tráng đổ vào sông Hồng, một nhánh chảy qua làng Tài, Ngọc Lịch rồi qua rìa làng Lê Cao, Phúc Thọ, Tam Kỳ. Đoạn chảy qua Xuân Cầu có tên là Nghĩa Trụ.
Dòng sông chảy qua soi bóng bờ tre rặng nhãn, những đêm hè sóng sánh ánh trăng. Thuở ấu thơ tôi đã từng là học sinh trường tiểu học Tô Hiệu, trường nằm bên bờ sông thuộc địa phận Tam Kỳ nhưng hơn nửa thế kỷ bươn chải tôi mới càng hiểu thấu rằng tôi đã từng đứng bên Bến Ngóng, nơi xưa kia tấp nập thuyền buồm xuôi ngược kinh kỳ Phố Hiến đã từng ghé bến Ngóng. Bên bến Ngóng có cây si mọc ở đất này từ bao giờ không ai hay nhưng thuở ấu thơ lấm lem mực tím tôi từng ngồi dưới gốc cây si mà cứ ngỡ như ngồi dưới tán đa cổng làng Tam Kỳ. Gốc si mà ba bốn người ôm. Chắc có tấm lòng si người đẹp vùng này từ thuở Tân Kiều, nên cây si mới cổ thụ nhường ấy. Bề dày của sự ngóng đợi, chiều dài của nỗi chờ mong chắc đã một phần gửi trong mấy câu ca da diết mà khôn cùng bâng khuâng:
“Ai về Đồng Tỉnh, Xuân Cầu
Để thương để nhớ, để sầu cho ai
Để sầu cho khách vãng lai
Để thương, để nhớ cho ai bây giờ”.
Không biết trên bến Ngóng đã diễn ra bao canh trống quân nhưng Xuân Cầu đích thực là một trong những cái nôi trống quân như Dạ Trạch, Đa Hoà, Mễ Sở... Chàng trai nào tốt phúc bén duyên với cô gái Xuân Cầu, Tết phải nộp ngàn gạch chỉ để lát đường mà là đường gạch chỉ vỉa nghiêng. Xuân Cầu không biết đã có bao chàng rể từ độ có lễ nộp cheo bằng gạch này mà riêng đường làng thẳng như kẻ chỉ từ cổng Lê Cao qua Phúc Thọ, Tam Kỳ xuống tận Đồng Tỉnh dài cây số có dư mà đỏ au đường gạch, sau trận mưa rào.
Cho đến hôm nay, người Xuân Cầu vẫn nhớ da diết tiếng chuông chiều mỗi lần chùa Phúc Thọ thỉnh. Sao tiếng chuông vang xa mãi, thổn thức, bâng khuâng. Nghe nói tiếng chuông vọng xa như thoảng tiếng thở dài thờ thẫn từ khi có người thôn nữ xuống tóc nương nhờ cửa phật tại chùa Phúc Thọ, Xuân Cầu. Đồn rằng người đó nương nhờ cửa đền để hoá giải mối tình dang dở không thành với Hải Thượng Lãn Ông - Lê Hữu Trác. Huyền thoại này cũng đã được chép lại.
Dân Xuân Cầu từ bao đời rất hiếu học. Quỹ khuyến học ở Xuân Cầu được lập ra từ thời Lê Nhân Tông do Nghĩa Quận Công Nguyễn Tính đề xuất với dân làng khi ông vinh quy bái tổ, ông đã bỏ ra năm mẫu ruộng lập ra quỹ khuyến học, hàng năm thưởng cho những trò chăm ngoan, học giỏi, đỗ đạt. Quỹ khuyến học ở Xuân Cầu có bề dày truyền thống lâu đời. Con cháu các dòng họ thi nhau chăm học. Người các họ Tô, Quản, Lê, Nguyễn có nhiều khoa bảng, nhất là họ Nguyễn liền 9 đời có người đỗ đạt làm quan. Có người 16 tuổi đã đậu “tứ trụ”, Nguyễn Hằng 29 tuổi đã Tiến sỹ, Nguyễn Tính 30 tuổi đỗ Tiến sỹ. Trong số những làng Việt Nam có từ trên 10 người đậu khoa bảng, huyện Văn Giang có 2 làng, đó là làng Đa Ngưu và làng Xuân Cầu. Những khoa bảng ở Xuân Cầu còn lưu trong văn bia, nhất là trong văn bia Quốc Tử Giám có 3 phó bảng, 9 tiến sĩ.
Những người ở Xuân Cầu đậu khoa bảng thường trở thành trọng thần trong triều nội hay làm quan tại các trấn, hạt nhưng có người nổi tiếng về quân sự, ngoại giao, lịch sử hoặc trở thành thi nhân như:
Nguyễn Tính được bổ nhiệm làm Lễ bộ Thị Lang Nghĩa Quận Công, Nguyễn Hành làm đến chức Lại bộ tả thị lang rồi được phong Công bộ thượng thư, khi đi kinh lý Tuyên Quang đã thuyết phục tướng nhà Thanh Sầm Trí Phương đòi lại cho nước ta huyện Bảo Lạc, năm ấy ông mới 45 tuổi. Tiến sỹ Nguyễn Gia Cát được phong Đông các đại học sĩ (đời Gia Long)...
Nối tiếp truyền thống của các bậc khoa bảng trong làng, thế kỷ XX, Xuân Cầu lại xuất hiện những nhà hoạt động cách mạng, văn hoá xã hội chẳng những tô thắm thêm trang sử làng quê giàu truyền thống cách mạng mà còn làm rạng danh non sông đất nước. Ông Tô Chấn, một yếu nhân của Quốc Dân Đảng, khi bị giặc Pháp bắt đày đi Côn Đảo, ông đã giác ngộ trở thành chiến sĩ cộng sản. Năm 1936, nhận nhiệm vụ vượt ngục về đất liền hoạt động, ông đã hy sinh trên biển. Đồng chí Tô Hiệu, em ruột ông Tô Chấn một chiến sĩ cộng sản kiên cường. Khoảng năm 1935 ông bị giặc quản thúc ở địa phương, chính trong thời gian này, ông đã vận động xây trường tiểu học Tô Hiệu một trong 2 trường tiểu học của huyện Văn Giang lúc bấy giờ. Tiếp tục hoạt động, đồng chí Tô Hiệu là thường vụ xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí bị bắt rồi bị giặc Pháp đầy lên nhà tù Sơn La. Tại đây vì sức yếu lại bị địch giam cầm dưới hầm tối và tra khảo dã man, năm 1944, đồng chí Tô Hiệu đã hy sinh.
Đồng chí Nguyễn Công Miêu, em ruột nhà văn Nguyễn Công Hoan tức Lê Văn Lương cũng là một chiến sĩ cộng sản anh dũng, đồng chí Lê Văn Lương trở thành một trong những người lãnh đạo của Đảng. Đồng chí Lê Văn Lương là ủy viên trung ương Đảng rồi được bầu vào bộ chính trị và đã từng là Bí thư thành ủy Hà Nội.
Đồng chí Lê Giản là Tổng giám đốc nha công an đầu tiên (tức Bộ trưởng Bộ công an). Đồng chí Tô Điển tức Tô Quang Đẩu là Thứ trưởng Bộ công an. Thiếu tướng Nguyễn Tài, con cả nhà văn Nguyễn Công Hoan, một trong những người đứng đầu Cục an ninh quốc gia, được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang.
Trong lĩnh vực văn hoá, Xuân Cầu đã kết tinh hai cây đại thụ trong hội họa và trong làng văn. Danh họa Tô Ngọc Vân, hiệu trưởng đầu tiên của trường Mỹ thuật nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, một trong tứ kiệt hội họa Việt Nam, di sản tranh của ông đã làm nền cho hội họa Việt Nam.
Dòng họ Tô ở Xuân Cầu ngày nay còn có Đại tướng Tô Lâm, sinh ngày 10/7/1957, hiện là Ủy viên Bộ Chính trị, Giáo sư Tiến sĩ, Trung tướng Tô Ân Xô, sinh năm 1963, phát ngôn viên của Bộ Công an nay là trợ lý Tổng bí thư, thân phụ ông là nhà báo Tô Ân là nhà báo quân đội nhân dân, liệt sĩ hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quả thật ít có những làng như Xuân Cầu lại sinh cho đời nhiều hiền nhân đến thế. Đặc biệt có hai bộ trưởng công an: Lê Giản và Tô Lâm. Hiện nay ông Tô Lâm là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước.

Gần dân, chăm dân – dân quý, dân thờ là yếu tố tạo nên giá trị đặc sắc của di sản tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương....
Bình luận