Nhà văn quân đội Nguyễn Khắc Thứ

Năm 1948 tại Hà Tĩnh. Tôi đang là chú vệ quốc tí hon của Trung đoàn. Đội tuyên truyền văn hóa của trung đoàn 103 Hà Tĩnh chúng tôi được đón một người phụ trách có chữ, còn ít tuổi nhưng tôi đã biết quý trọng điều này. Người có chữ đó là anh Nguyễn Khắc Thứ. Mà làm sao, một người Quảng Trị “thứ thiệt” ra tận xứ này để nhập ngũ. Sau này, tôi dần dần biết rõ ra. Mặt trân Huế vỡ. Giặc Pháp tấn công vào và lực lượng vũ trang Huế, Quảng Trị cùng cán bộ chạy giạt ra Thanh Nghệ Tĩnh bằng đường tàu. Bằng những chuyến tàu suốt, tàu chợ cuối cùng. Cách mạng Tháng Tám thành công ở Quảng Trị khi anh Thứ đang là viên chức ngành hỏa xa. Nguyễn Khắc Thứ là trưởng tàu. Là “chef train” ngày ấy. Có lẽ chuyến tàu cuối khi mặt trận Huế đã vỡ, ra đến ga Chu Lê thuộc hạt Hà Tĩnh là dừng lại. Là tất cả nghẽn đường về.

Sự “có chữ” ở anh Nguyễn Khắc Thứ đã xui tôi mon men đến anh và anh chiếu cố áp lại gần vì đôi lần anh bắt gặp tôi viết lén điều gì đó vào sổ tay. Trung đoàn 103 của tôi hay chuyển dịch qua các vùng đất trong quê. Lần nào, anh Thứ cũng hỏi tôi “Có thấy cái chi khác không?”. Nhìn kỹ thử coi, thấy khác thì ghi vào “mình thấy khác là cảnh vật ấy của mình rồi đó”. Hai anh em thường tha thẩn trong vùng đóng quân. Anh Thứ là ông đồ cho chữ và tôi là môn sinh lẽo đẽo theo thầy. Anh Thứ là biên tập viên bài thơ đầu đời của tôi. Bài thơ in báo Trung đoàn. In trên đá. Có một thứ in trên đá như vậy gọi là in li-tô. Tôi còn nhớ rõ.

Trung đoàn tôi giải thể ở Thanh Hóa năm 1949. Liên khu 4 xốc đủ đội hình cho một đại đoàn 304. Số còn lại tùy theo quê quán của mỗi người mà phân chia theo kiểu “ai mô về nơi ấy”. Anh Nguyễn Khắc Thứ trở về mặt trân Bình Trị Thiên. Khi đi anh là trưởng tàu. Giờ về là một cán bộ tuyên huấn tăng cường cho mặt trận. Mấy năm tan tác đội hình. Lúc này ba tỉnh miền Trung từ lưng đèo Ngang vào đến chân đèo Hải Vân đã có ba trung đoàn chủ lực. Một cơ quan đầu não gọi là mặt trận bộ. Lấy vùng rừng lồ ô Hòa Mỹ làm chiến khu. Nguyễn Khắc Thứ là một thành viên của bản doanh trong rừng này…

*

Nhà văn quân đội Nguyễn Khắc Thứ - 1

Những đồng chí đồng đội của nhà văn Nguyễn Khắc Thứ ở Thư viện Quân đội. (Ảnh: Nhà văn Châu La Việt cung cấp)

Liên khu 4 có hai vùng cách biệt. Thanh Nghệ Tĩnh là hậu phương của Bình Trị Thiên tiền tuyến. Các trung đoàn 101, 95, và 18 đã dừng chân trên quê nhà. Đối diện với các binh đoàn Tây đen, Tây trắng và lính dõng trong đạo quân Pháp xâm lược và nổ súng. Vùng tự do chi viện tích cực. Sau các đội hình chiến đấu là lực lương tham mưu, hậu cần. Sau súng đạn, thuốc men và muối gạo là lời ca tiếng hát. Đội văn công của Đình Quang có nhạc sĩ Phạm Duy đi kèm đã vào đến Dương Hòa, Hòa Mỹ. Đội thứ hai là một lực lượng hùng hậu chuyên diễn kịch do Bửu Tiến dẫn đầu. Tôi di trong đội hình này và vì vậy được gặp lại anh Nguyễn Khắc Thứ ở Hòa Mỹ tháng 10 năm 1950.

Quảng Trị đã đánh giặc dọc đường số 9. Đã có vùng đất lừng danh chiến công. Trận Nam Đông gắn với tài năng chỉ huy của Trung đoàn trưởng Lê Bá Vận. Quảng Bình có trận Xuân Bồ và Thừa Thiên có trận Thanh Hương. Trung đoàn 101 chống giặc càn ở vùng phá Tam Giang để những tên đất Ké Môn, Đại Lược, Thanh Hương, Phong Chương vào nhạc, vào thơ. Tôi hay sang thăm anh Thứ. Ở đó tôi gặp Trần Quốc Tiến và Vĩnh Tôn. Hai anh này, người vẽ, người làm thơ. Chụm ba người lại làm một cơ quan tuyên huấn. Một tờ báo in đá, một trung tâm văn nghệ và trên hết là một tổ ba người. Họ kết nghĩa dưới rừng lồ ô Hòa Mỹ như ba nhân vật của “Tam quốc diễn nghĩa” kết tình huynh đệ dưới vườn đào. Tính nết họ khác nhau và anh Nguyễn Khác Thứ luôn luôn trong vai trò Lưu Bị. Họ chăm xuống đồng bằng. Họ là nguồn thông tin giao lưu giữa nhân dân với cơ quan chỉ đạo việc đánh giặc ở trên rừng.

- Gắng làm một cái gì chi đó rồi về đây với anh. Anh Thứ luôn nhắc tôi như vậy.

Tôi mê họ. Sau này mới thấy có Trường Mỹ thuật, có Trường Viết văn Nguyễn Du. Ở anh Nguyễn Khắc Thứ, Trần Quốc Tiến và Vĩnh Tôn (sau này là Hải Bằng) là họ tự đào tạo ra tài năng của họ. Mỗi lần tôi sang thăm anh Thứ, tôi bắt gặp đường nế, vần điệu và ý tưởng của họ xôn xao dưới rừng lồ ô ẩm ướt. Tôi mê họ và suốt đời không giấu giếm điều này. Anh Nguyễn Khác Thứ lặng lẽ hơn cả. Cần mẫn hơn cả. Những bài vở lòng về sự quan sát, so sánh thực tế quanh mình mà anh nhắc tôi ngày còn ở Hà Tĩnh lúc này đã có bài thị phạm cụ thể. Anh Nguyễn Khác Thứ ghi chép vào hàng chục cuốn vở học trò. Cái túi tư liệu ấy dồn nén vào bản thảo Truyện ký Trận Thanh Hương.

Mặt trận bộ Bình Trị Thiên rời chiến khu Hòa Mỹ về vùng đồi Phong Thu để gần dân hơn, để điều hành chiến trận sát sao hơn. Nằm chưa ấm chỗ thì giặc càn. Toàn bộ lực lượng chỉ huy đầu nảo bị xô giạt sang đất Quảng Trị. Tôi xa chiến trường năm 1951. Ra khỏi bìa rừng, nhìn ngoái lại vùng rừng Cầu Nhi xanh biếc. Chưa có cái giấy “thông hành” để nhập bọn với anh Thứ. Với Trần Quốc Tiến và Vĩnh Tôn.

Năm 1952, tôi trở lại chiến trường Quảng Trị, ở lại với đoàn văn công của anh Đình Quang cho đến ngày thành lập Đại đoàn 325. Anh Nguyễn Khắc Thứ đã có sách in. Trần Quốc Tiến đã có tranh và Vĩnh Tôn có thơ.

- Anh viết trận Thanh Hương hồi nào vậy? Tôi hỏi anh Thứ.

- Viết ở An Cư được nhiều hơn cả. Phần còn lại là chắp vá trong từng chuyến đi về.

- Ai báo tin cho anh về giải thưởng?

- Nghe thấp thoáng vậy thôi.

Lạ lắm. Cái thời mọi việc đều thấp thoáng. Thấp thoáng nghe. Thấp thoáng biết. Gọi nhau cũng thấp thoáng và sự ghi nhận cũng thấp thoáng. Cả cơ quan mặt trận ở Ba Lòng có biết một người tên Nguyễn Khắc Thứ. Hay hí húi viết viết, ghi ghi. Và nghe thấp thoáng rằng cuốn sách của anh ta viết về một trận đánh của Trung đoàn 101 ở dọc phá Tam Giang vừa được giải thưởng ở ngoài Việt Bắc. Nhưng ở Ba Lòng này chẳng liên quan, liên đới gì!

Thôi, dẫu tiếng vang của một giải thưởng văn học quốc gia thời ấy không linh đình như thời nay người ta đón một đội bóng nhí U14, U22 gì đó chiến thắng và trở về quê nhà. Nhưng là một người có công làm cho trận đánh Thanh Hương vang dội trên văn đàn mà danh tánh mình thị lặng phắc. Có lần tôi hỏi thẳng ông Trần Quý Hai – Ông là chỉ huy trưởng mặt trận – “Ông có đọc cuốn sách của anh Nguyễn Khắc Thứ không?”. Ông Hai ứ hự như người trong truyện cổ. Có lần tôi hỏi thẳng ông Nghiêm Kình – Ông là trưởng phòng chính trị - “Ông có biết giá trị của giải thưởng này không?”. Tôi bị oan uổng là phải ngồi nghe ông Kình nói trăng giang đại hải về chủ đề tư tưởng, về khuynh hướng văn học, về tính Đảng, tính nhân dân nhưng xem ra chẳng mục nào dính vào tác phẩm của anh Nguyễn Khắc Thứ.

*

Đại đoàn 325 tập kết ra Bắc. Đóng ở Quảng Bình. Vừa lúc Tổng cục Chính trị mở trại viết về anh hùng. Nguyễn Khắc Thứ được triệu tập ra Hà Nội. Ở đó, nhiều người gặp anh lần đầu. Nhưng là những người cầm bút, họ biết có một Nguyễn Khắc Thứ, một trận Thanh Hương, một giải thưởng văn học kháng chiến. Nguyễn Khắc Thứ có tác phẩm in sách trước nhiều người. Về Hà Nội là một dịp may. Lao đao được một ván cầu sang bến mà mở đường đi tiếp nữa. Oái oăm thay, với Nguyễn Khác Thứ là nút thắt của một bi kịch. Bi kịch sau cùng của đời người.

- Giá như anh Thứ về nhà số 4 Lý Nam Đế. Sau này tôi vẫn nói với anh như vậy.

- Anh đã có nhuận bút sớm. Anh muốn lập một phòng văn thật sự. Anh muốn thử sức mình. Những đêm dài bất tận và buồn tê tái sau này, anh Thứ vẫn nói vậy. Đúng là ý nghĩ nghiêm túc và thành thật khi anh thuê một phòng nhỏ ở phố Nguyễn Quyền, mé hồ Thuyền Quang – Hà Nội. Anh Thứ đã làm việc, viết văn hết sức say mê ở căn phòng nhỏ nhắn đó. Lâu lâu, anh về Sư đoàn 325 (tên gọi sau), về thăm vợ con ở Quảng Bình bằng xe đạp. Guồng xe qua đèo Ba Dội và Đèo Ngang bằng sức đang vạm vỡ bằng niềm hưng phấn của một người sáng tạo, người mới ngoài ba mươi và đang yêu.

Tôi từ Đoàn Kịch Quân độ đến thăm anh luôn. Và tôi biết rõ mọi điều buồn vui đã ập đến căn phòng ấy. Thoạt đầu là các cô cậu học trò cấp ba. Mon men đến tìm văn, tìm người. Ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế cũng không hiếm cảnh ấy. Các nhà văn mặc áo lính trai trẻ, đáng yêu và tài năng luôn là địa chỉ cảm mến của các cô gái đẹp.

Nhà văn quân đội Nguyễn Khắc Thứ - 2

Tuyển tập Nguyễn Khắc Thứ do nhà văn Châu La Việt tuyển chọn.

Nhưng nhà số 4 Lý Nam Đế là một tập thể, có quan sát để che chở cho nhau. Cô học trò đến với anh Thứ - sau này hình như cũng là nhà văn – bằng tất cả độ say đắm qua lại. Tôi với anh Thứ cũng thương nhau đến vậy nhưng vì tôi là giống đực. Làm gì có tai ương. Cô gái luôn tỏ ra là người lớn. Đến vì mộ điệu một văn tài. Anh Thứ lại tỏ ra là người vừa rời ghế nhà trường phổ thông. Anh trẻ lại và hay che kín những tâm trạng. Mặc dù tôi biết cả. Tôi là một diễn viên kịch. Tôi phải học bốn giờ phân tích tâm lý con người mỗi tuần.

Điều gì sẽ xảy ra đã xảy ra với họ. Một nhà văn và một cô học trò mê văn. Điều gì đó giá xảy ra vào thời cởi mở mà ta đang sống hôm nay chắc sẽ có hồi kết êm hòa. Oái oăm thay, việc xảy ra trong lúc vụ “Nhân văn – Giai phẩm” nổi cộm lên trên đời sống xã hội miền Bắc nước ta. Anh Nguyễn Khắc Thứ bị triệu về Sư đoàn 325. Và một vụ án được bày ra.

- Vợ con anh Thứ đứng sau vụ án này dồn hết căm giận lên anh. Không đáng vậy nhưng đã quá tay làm vậy. Quá tay vậy để sau này hối tiếc.

Nhà văn Nguyễn Khắc Thứ chịu cái oan trong cảnh đọa đầy.

Tôi chẳng bênh cho khuyết điểm của anh Thứ. Đúng là anh có khuyết điểm. Song đẩy anh vào một cuộc lao động cải tạo ở Nông trường An Khánh; lại đẩy tiếp anh vào một cái kho sách của Thư viện Quân đội. Anh Thứ đã sống nhiều năm đơn côi, lặng lẽ. Một tâm thức não nề với một con mèo, một cây đèn bão giữa hàng vạn cuốn sách mà Thư viện Quân đội cất giữ cho miền Nam sau này.

Có một người thương anh. Tôi biết. Giám đốc Thư viện Quân đội Đinh Quang Thiệu thương anh. Và nhờ vậy tập thể Thư viện Quân đội thương anh. Chỉ được vậy đã là to tát lắm vì không ai có quyền cởi án cho anh. Có lần tôi hỏi Giám đốc Thiệu:

– “Để anh Thứ ở cái kho sách ấy là làm việc hay giam cầm?”.

-  Đừng nói thế. Anh Thiệu ngắt lời tôi – Có giam cầm gì đâu. Nhưng cũng không có cách nào khác. Bọn mình thương anh Thứ và chỉ dám thương được vậy.

-  Thế anh Thứ có tội gì?

-  …

-  Cứ cho là có tội, có án. Nhưng giam cũng phải có hạn của cái án đặt ra chứ!

Anh Thứ ở vậy cho đến ngày cầm các thứ giấy tờ và lần về đến Quảng Bình. Từ đó ra “Nơi quê người vắng vẻ” như thư của họa sĩ Trần Quốc Tiến viết cho tôi

Thư của họa sĩ Trần Quốc Tiến kêu gọi bạn bè, đồng đội góp tình quý trọng, thương yêu để cùng với gia đình tạo lại sự ấm cúng cho ngôi mộ của một nhà văn đã cống hiến cuộc đời mình bằng những tác phẩm. Tôi đồng tình.

Tôi muốn nhân dịp đó mà rước ông về An Cư. Tất nhiên để đạt được mục tiêu xa hơn này, chúng ta cần có sự bảo trợ của chính người Quảng Trị, chính quyền Quảng Trị, bạn bè của anh Nguyễn Khác Thứ ở Quảng Trị.

Phạm Ngọc Cảnh

Tin liên quan

Tin mới nhất