Thơ ca chống Mỹ: Một diễn ngôn lịch sử
Nếu như ở giai đoạn thơ ca chống Pháp, hình ảnh người lính trong thơ còn hồn nhiên, trong sáng và chất phác, thì đến giai đoạn thơ ca chống Mỹ cứu nước, hình ảnh của họ trở nên rắn rỏi, chắc khỏe hơn. Bởi lẽ họ luôn ý thức được rằng mình là những người đi đánh giặc giải phóng quê hương đất nước, đấy mới là nhiệm vụ chính, rồi mới đến làm thơ.
Có thể nói cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, bắt đầu từ sau Hiệp định Genève. Nhưng phải đến sự hà khắc của Luật 10/59 của chính quyền Ngô Đình Diệm khiến đội quân tóc dài ở Bến Tre đã phát động Phong trào Đồng Khởi (1960) và nhanh chóng lan ra khắp miền Nam, thì sức nóng của cuộc chiến ấy mới được đẩy lên một cao trào mới. Tiếp đến, Mỹ mở ra hàng loạt chiến dịch hòng gây áp lực với phong trào đấu tranh của quân và dân miền Nam. Cuối cùng, người Mỹ đã phải vin vào cái cớ được gọi là sự kiện Vịnh Bắc Bộ, ngày 5/8/1964 để đánh vào Hải Phòng, Quảng Ninh rồi lan ra khắp miền Bắc, khiến lòng sôi sục căm thù giặc Mỹ xâm lược của nhân dân hai miền Nam - Bắc được nhân lên gấp bội phần.
Tác phẩm “Bên chiến hào Vĩnh Linh” của họa sĩ Đào Đức. (ảnh minh họa)
Tiếng nói từ những người trong cuộc
Cũng chính vào thời điểm đó, lớp lớp thanh niên miền Bắc đã xếp bút nghiên theo việc binh đao, lên đường tòng quân diệt giặc. Hào khí ấy thực sự đã làm nên một tâm thế thời đại mới, tạo tiền đề về cơ sở xã hội, nhận thức tư tưởng và tâm lý cho một xu hướng sáng tạo thi ca mới.
Có thể nói, nếu không có một tâm thế thời đại mới, cái tâm thế của lòng quyết tâm đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào thì làm sao có được đội ngũ trùng điệp những chiến sĩ - thi sĩ vừa sung sức, vừa tài hoa và lòng nhiệt tình dường như lúc nào cũng trào dâng trong huyết quản. Những tên tuổi đã gắn liền với cuộc kháng chiến ấy cũng như trải dài và rộng khắp trên các trang sách, báo của nhiều thế hệ học trò trong 70 năm qua và mãi về xa sau không thể nào quên khi nhắc đến các nhà thơ chống Mỹ như: Phạm Ngọc Cảnh, Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Đức Mậu, Anh Ngọc, Vương Trọng, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Vũ Đình Văn, Hoàng Nhuận Cầm, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ...
Ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến, từ trong vùng địch tạm chiếm đã vang vọng tình cảm thiết tha của đồng bào miền Nam đối với miền Bắc, ở đấy có Bác Hồ, có suối nguồn cách mạng. Bài thơ Bóng cây Kơ-nia của Ngọc Anh là một minh chứng rất cụ thể, sinh động:
“Em hỏi cây Kơ-nia
Gió mày thổi về đâu
Về phương mặt trời mọc
Mẹ hỏi cây Kơ-nia
Rễ mày uống nước đâu
Uống nước nguồn miền Bắc”
Còn nhà thơ Thanh Hải ngay giữa chiến trường miền Nam những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với những vần thơ da diết mà cháy bỏng, ông đã cổ vũ cho tinh thần đấu tranh quật cường của đồng bào, đồng chí miền Nam trong bài Mồ anh hoa nở.
“Hôm qua chúng giết anh
Xác phơi đầu ngõ xóm
Khi lũ chúng quay đi
Mắt trừng còn dọa dẫm
- Thằng này là Cộng sản
Không đứa nào được chôn!
Không đứa nào được chôn!
Lũ chúng vừa quay lưng
Chiếc quan tài sơn son
Đã đưa anh về mộ.
Đi theo sau hồn anh
Cả làng quê đường phố
Cả lớn nhỏ, gái trai
Đám càng đi, càng dài
Càng dài càng đông mãi”.
Phạm Tiến Duật là người lính của Đoàn vận tải quân sự 559, trên dãy Trường Sơn đã có những vần thơ vừa lạc quan, nhưng cũng vừa chân thật về những người lái xe năm xưa. Có thể do tố chất và năng khiếu bẩm sinh của con người thi sĩ trong ông, nên Phạm Tiến Duật đã chọn khía cạnh lãng mạn của người lính chiến, hay đúng hơn là cuộc đời đã hướng ông đến với sự lãng mạn nhiều hơn là nỗi đau của cuộc chiến:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
...
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm, cười ha ha…”
(Tiểu đội xe không kính)
Nhà thơ Hữu Thỉnh đã từng có những đêm hành quân qua vùng giáp ranh Đắc Tô, trước khi tiến về Sài Gòn giải phóng hoàn toàn miền Nam, với những ghi chép rất cụ thể, bổng, lãng mạn:
“Tiếng bìm bịp bập bềnh
trong đêm nước lên
cỏ lác, cỏ lăn cứa vào đêm ram ráp
ếch nhái nghiến răng sao mà sốt ruột
chớp nhì nhằng lô cốt méo bên sông”
...
“đêm qua sông không nhìn rõ con đò
và người lái, dồn bao nhiêu câu hỏi
chúng tôi đi còn tần ngần ngoái lại
chỉ thấy vầng trăng cuối tháng mới quăng lên
chúng tôi đi với một niềm tin
vầng trăng ấy chở chúng tôi cập bến.”
(Chuyến đò đêm giáp ranh)
Trước lúc hành quân hay khi trận đánh sắp bắt đầu, những người lính chỉ kịp ghi lại vài dòng như một tin báo hay một linh cảm nào đấy. Tính chất ký và phóng sự chiến trường là đặc trưng khá nổi bật của nền thơ ca chống Mỹ. Nhiều bài thơ được viết như là ghi tốc ký để kịp đưa tin chiến sự. Nhà thơ như Phạm Tiến Duật đã từng làm thơ theo kiểu ấy:
“Cục Tác chiến báo sáng tin cuối cùng
Về số máy bay rơi và tàu chiến cháy
Nha khí tượng tin cơn bão tan
Bộ Nông nghiệp tình hình vụ cấy…”
(Công việc hôm nay)
Lê Anh Xuân thật sự có lý khi anh khắc họa hình ảnh anh giải phóng quân tượng trưng cho niềm tự hào của cả dân tộc, cho dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:
“Chợt thấy anh giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn
Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công”
…
“Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân”.
(Dáng đứng Việt Nam)
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có chung một cảm hứng anh hùng ca như thế:
“Tôi đi trên những con đường ấy
Mang Việt Nam trong linh hồn
Cuộc hành trình hai mươi năm chân chưa hề mỏi
Nên tôi theo đường rừng mê mải vượt Trường Sơn”
...
“Hôm nay trên đường đánh Mỹ
Tôi dừng chân mắc võng qua đêm
Nghe suối khuya động tiếng thì thầm
Đang cùng tôi có mặt đêm nay...”
(Tôi đi trên những con đường rừng cũ)
Khi phải đối diện với hiện thực nghiệt ngã của chiến tranh thì các nhà thơ - chiến sĩ vẫn biết tìm cách làm cho lòng mình nhẹ hơn để mà tiếp tục chiến đấu:
“Một tháng vã hành quân
Hai chân phồng rộp cả
Quấn băng rồi vẫn đau
Nhiều lúc đi bằng đầu...”
(Mùa xuân đi đón - Hữu Thỉnh)
Hiện thực cuộc kháng chiến chống Mỹ vốn đã chứa đựng nhiều điều bí ẩn từ con người đến địa danh hay chiến công. Nhà thơ như người thư ký của thời đại đã ghi lại một cách trung thực nhất những huyền thoại của cuộc chiến ấy:
“Này đây
Doi đất Cửu Long xanh
Sư đoàn châu thổ
Giữa bãi sú, rừng tràm
Vụt đứng dậy sư đoàn Nam Bộ
Sư đoàn Tây Nguyên
Từ hầm chông, bẫy đá, cung tên...”
(Sư đoàn - Phạm Ngọc Cảnh)
Chàng sinh viên văn khoa Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau khi rời ghế nhà trường đứng vào đoàn quân ra trận vẫn chưa nguôi những kỷ niệm ấu thơ của tuổi học trò:
“Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu
Dẫu hòn bi lăn hết vòng tuổi nhỏ
Trong những ba lô kia ai dám bảo là không có
Một hai ba giọng hát tiếng ve kim”...
(Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu - Hoàng Nhuận Cầm)
Nhà thơ - chiến sĩ Vũ Đình Văn ghi lại lần di chuyển xe xích kéo pháo qua khu IV, vượt cửa khẩu vào chiến trường với những khó khăn vất vả mà những người lính pháo binh từng trải qua:
“Chờ qua cửa khẩu đêm nay
Đoàn xe hàng đi nấp trong cây
Xuống phà lần chót
Bọn xích chúng tôi sốt ruột
Kêu rầm rù rung cả đồi mua
Đêm rất xanh, chẳng ai đi đèn rùa
Người lái xe chiến trường
trăng trong đôi mắt”...
(Đêm hành quân qua phà Long Đại - Vũ Đình Văn).
Và những góc nhìn khác
Nhà thơ Anh Ngọc sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ở chiến trường đã nghĩ về hình ảnh anh giải phóng quân của thời đại đánh Mỹ và thắng Mỹ, một đi không trở lại vừa sinh động, cụ thể, vừa có tính khái quát cao:
“Những người đi cùng thế hệ với tôi
Sắp sống trọn bản trường ca lịch sử”
…
“Họ đã sống một thời khắc nghiệt
Muốn sống bình thường thôi cũng phải sống anh hùng
Nuôi sống người là cây lá trên rừng
Vầng trăng đẹp nhưng bóng đêm cần cho người vượt lộ
Đường nhiều địch không kịp nhìn hoa nở
Thắng trận về chim báo đã sang xuân
Cái thời khắc ngàn năm qua mới có một lần
Ngàn năm sau chưa dễ gì có lại”
…
“Và câu chuyện về những người con gái
Tuổi xuân đi qua trong khói lửa chiến trường
Đem máu xương giành lại quê hương
Là câu chuyện mai sau nhiều thế hệ
Trong độc lập tự do cầm tay nhau sẽ kể
Với ánh trăng non với cánh rừng già
Với con đường mà họ đã đi qua”.
(Sông núi trên vai)
Con đường ra trận đánh Mỹ đâu chỉ có những người lính mà còn cả những người em, người chị ở hậu phương đang đợi các anh. Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh tài hoa mà da diết, hành quân đi đánh giặc vẫn không nguôi nhớ về hội Gióng, hội Lim nơi miền quê Bắc Ninh của anh khi bắt gặp bóng hình người con gái trên đường hành quân đánh giặc:
“Đường đánh giặc trẩy xuôi về bến bãi
lý ngựa ô em hát đợi bên cầu...
đêm đánh giặc mịt mù cao điểm
vạch lá rừng nhìn xuống quê em
mặt đất ra sao mà thúc vào điệu lý
khuôn mặt ra sao mà suốt thời chống Mỹ
lý ngựa ô hát đến mê người
mỗi bước mỗi bồn chồn về đó em ơi”...
(Lý ngựa ô ở hai vùng đất - Phạm Ngọc Cảnh)
Con đường ra mặt trận trải dài từ Bắc vào Nam, rộng khắp, nô nức, cuốn hút cả dân tộc vào cuộc trường chinh đánh giặc, giải phóng quê hương đất nước như đi trẩy hội mùa xuân:
“Những buổi vui sao cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục”
(Đường ra mặt trận - Chính Hữu).
Hay:
“Trên đường ta đi đánh giặc
Dù vào Nam hay ta lên Bắc
Ở đâu cũng gặp những ngọn đèn dầu chong mắt đêm thâu...
Những ngọn đèn không bao giờ tắt...
Như miền Nam
Hai mươi năm không đêm nào ngủ được
Như cả nước với miền Nam
Đêm nào cũng thức...
Soi cho ta đi đánh trận trường kỳ
Đèn ta thắp niềm tin theo dõi...
Đi nhanh đi nhanh chiến trường đang gọi...”
(Ngọn đèn đứng gác - Chính Hữu)
Một dân tộc vừa đánh giặc vừa làm thơ, thì khi cuộc chiến càng cam go, ác liệt thì giọng thơ lại càng hào sảng, lạc quan:
“Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất”...
(Bài thơ của một người yêu nước mình - Trần Vàng Sao)
Đúng như Nguyễn Đình Thi đã viết về đất nước và con người Việt Nam trong những năm tháng đau thương mà vẫn ngời lên bản sắc nhân hậu:
“Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”
(Quê hương Việt Nam - Nguyễn Đình Thi)
Điều mà nhà thơ Tạ Hữu Yên sau này đã viết là rất đúng: “Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ, các con không về lòng mẹ lặng yên” (Đất nước). Dẫu biết rằng lên đường đi đánh giặc là làm một cuộc chia ly lớn trong cuộc đời mỗi người và của cả dân tộc, nên không khỏi xót xa, bùi ngùi:
“Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly
Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia
Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy
Không che được nước mắt cô đã chảy”
(Cuộc chia ly màu đỏ - Nguyễn Mỹ )
Có lẽ chỉ có người Việt Nam, trong đạn bom khốc liệt của chiến tranh, trong tận cùng của nỗi đau chia cắt, người ta vẫn nghĩ về hạnh phúc. Nhưng có hạnh phúc nào hơn, khi đất nước đang có họa xâm lăng, những chàng trai cô gái được đóng góp một phần tuổi trẻ của mình cho cuộc chiến ấy mà không hề do dự, tính toán được mất, thiệt hơn dù đấy là nỗi đau tột cùng không có gì bù đắp được:
“Anh mất em như mất nửa cuộc đời
Nỗi đau anh không thể nói bằng lời
Một ngọn lửa thâm trầm âm ỉ cháy
Những viên đạn quân thù bắn em trong lòng anh sâu xoáy
Bên những vết đạn xưa chúng giết bao người
Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi
Như bỗng tắt vừng mặt trời hạnh phúc”
(Bài thơ về hạnh phúc - Dương Hương Ly).
Trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào, nhân dân cũng là sức mạnh làm nên chiến thắng. Sau này, nhà thơ Thanh Thảo đã có những suy tư về nhân dân, dân tộc khá chân thành và sâu sắc:
“Dân tộc tôi khi đứng dậy làm người
Mồ hôi vã một trời sao trên đất
Nhân dân tôi khởi lên từ phù sa vất vả
Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi
Bao tai ương cứ dội xuống theo mùa”
(Những người đi tới biển - Thanh Thảo)
Những người con gái ở hậu phương thời ấy lấy làm hãnh diện khi có người yêu là những anh lính binh nhất, binh nhì. Còn người lính mang theo tình yêu ấy trong suốt quá trình hành quân đi đánh giặc, sau cái đêm cuối cùng gặp gỡ và chia ly:
“Ôi cái đêm hành quân rất vội
Mắt em, mắt anh ngần ấy vì sao
Còi lên đường, những vì sao xôn xao
- Thôi về đi em. Hai đứa cười chóng mặt
Đêm hành quân, anh nhớ em quá thể
Khoảng đời đầu có nhớ khoảng đời sau
Ở đây núi rừng xanh, lại nghe xanh sóng biển
Đố em tìm, em chẳng thấy anh đâu...”
(Nửa sau khoảng đời - Vũ Đình Văn)
Câu chuyện về những cô gái mở đường Trường Sơn hùng vĩ đã hy sinh thân mình để cứu những đoàn xe chở hàng ra mặt trận mà nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ kể lại đã gây xúc động hàng vạn trái tim của bao lớp người trẻ tuổi thời chiến tranh:
“Chuyện kể rằng: em, cô gái mở đường
Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đoàn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng quân thù. Hứng lấy luồng bom…
Tôi nhìn xuống hố bom đã giết em
Mưa đọng lại một khoảng trời nho nhỏ
Đất nước mình nhân hậu
Có nước trời xoa dịu vết thương đau...
Tên con đường là tên em gửi lại
Cái chết em xanh khoảng trời con gái
Tôi soi lòng mình trong cuộc sống của em...”
(Khoảng trời và hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ).
Ở một chiều kích khác lại có một Lê Bá Dương trăn trở, suy tư ở những góc khuất rất nhạy cảm của cuộc chiến:
“Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm”.
(Lời gọi bên sông - Lê Bá Dương).
Tạm khép
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã chắp cánh cho một thời kỳ thơ ca nở rộ. Và, chính nền thi ca ấy đã nâng tầm vóc cao hơn và xa hơn, cũng như khắc họa một cách sâu sắc hơn cuộc chiến ấy và đã trở thành diễn ngôn của thời đại. Chiến tranh dần lui vào quá vãng, nhưng những bản anh hùng ca về thời đại hào hùng của dân tộc vẫn còn vang vọng mãi. Tôi có thể quả quyết rằng chừng nào dân tộc Việt Nam còn, thì nền thơ ca chống Mỹ còn. Bởi lẽ sự tồn vong của dân tộc Việt Nam hôm nay gắn liền với những trang sử oai hùng chống giặc ngoại xâm mà đỉnh cao là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong hai cuộc kháng chiến ấy không thể thiếu thơ ca. Và những người hôm nay và mai sau không thể không tự hào vì đã có một nền thơ ca chống Mỹ như căn cước lịch sử và văn hóa của một thời đại anh hùng, làm hành trang cho mỗi người và cho cả dân tộc ta vững bước tiến về tương lai.

Xốc ba lô lên vai, băng qua một con dốc nữa chúng tôi mới gặp được người để hỏi thăm. Ủy ban xã Phú Minh sơ tán về...
Bình luận