Những vấn đề luôn có tính thời sự

Nhà xuất bản Hà Nội, 2020, đã ấn hành bộ sách đồ sộ 3 tập "Di sản Hán Nôm tỉnh Quảng Ninh", 3184 trang của ông Hoàng Giáp. Ông vừa là dịch giả, vừa là chủ biên của công trình này. Rất tiếc có một số sai và sót thật đáng tiếc. Tôi đã viết bài phê bình những sai sót này cùng với biểu dương những đóng góp rất lớn của ông, đăng báo Thời báo Văn học nghệ thuật và báo Hạ Long (Quảng Ninh). Bây giờ tôi mới nhận được hồi âm của ông, trong đó có điều ông nhận ra là sót và sai.

Phần thần tích thần sắc, có bài, có đoạn, ông viết mới bằng chữ quốc ngữ, nhưng lại để lẫn vào các bản dịch chữ Hán, chữ Nôm có từ những thế kỉ xa xưa, mà không có lời chú giải, vì thế, bạn đọc sẽ nhầm lẫn, cho rằng những văn bản ông mới viết thêm bằng chữ quốc ngữ này là những văn bản ông đã dịch từ các văn bản cổ. Ông đã cảm ơn tác giả, xin tiếp thu và hi vọng được chỉnh sửa.

Tôi rất cảm ơn ông, nhưng điều đó, tôi nghĩ là hoàn toàn không xảy ra, vì xưa nay, những bộ sách rất tốn kém thường không có điều kiện tái bản. Và những cái sai sẽ còn lại mãi mãi, các con cháu nhiều thế hệ sau đọc, lại tưởng là đúng, không ai phân xử cả. Còn lại là 6 điều ông muốn được làm rõ, và tôi rất vui được làm rõ, để không những ông mà nhiều bạn đọc khác, cùng quan tâm. Vì đây là những vấn để luôn có tính thời sự:

1 - Về bài thơ Đăng Kì sơn lưu đề: Với tư cách dịch giả, ông dịch đúng bản gốc, vậy không sai. Nhưng với trách nhiệm biên soạn, ông đã sai khi không chú giải văn bản gốc là sai, thế là thơ Phạm Sư Mạnh thời Trần ở trang này, thành thơ khuyết danh thời Lê ở trang khác, trong cùng 1 tập biên khảo của ông.

2 -  Về đền thờ Trần Hưng Đạo ở bến Rừng, Quảng Yên, tôi viết: “Trước nay ta vẫn nói đền này đã có và thờ Trần Hưng Đao từ thời Trần”, “nhờ công sưu tầm và dịch bia đá của ông, mới biết đền này mới có từ năm 1934, đến năm 1942 thì lập bia”. Tôi rất cảm ơn ông về giá trị khoa học này. Vậy thì việc gì ông phải thanh minh rằng ông không sai, từ thời Trần, thờ Trần Hưng Đạo chỉ có ở 3 nơi là Kiếp Bạc (Hải Dương) A Sào (Thái Bình) và Tức Mặc (Nam Định).

3 - Về quê gốc nhà Trần, ông viết: Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên… chép: “Vua họ Trần, húy Cảnh… Ông tổ đời thứ tư tên là Kinh đến hương Tức Mặc phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa,  đời đời làm nghề đánh cá”. Có mấy dòng cực kì quan trọng này của quốc sử, ông cũng chép sai.  Không có câu “Ông tổ đời thứ tư tên là Kinh đến hương Tức Mặc”.  Tức là từ Đông Triều đời thứ tư đến Tức Mặc. Tôi xin dẫn nguyên văn Đại Việt sử kí toàn thư tập II, Quyển V, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, trang 5: “Vua họ Trần húy Cảnh… Đời trước của vua là người đất Mân, (có người nói là người Quế Lâm) có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường…”. Như vậy là từ Trung Quốc, Trần Kinh đến Tức Mặc luôn, chứ không ở Đông Triều, không từ Đông Triều về Tức Mặc.

Tôi đã được mời dự một hội thảo hẹp khoảng 30 người ở Uông Bí, do Chủ tịch Hội Sử học Việt Nam, GS Phan Huy Lê và Bí thư tỉnh ủy Quảng Ninh Hà Văn Hiền chủ trì, trong đó có GS Trần Quốc Vượng. GS Lê nói: “Đông Triều không phải là quê gốc của nhà Trần”. Rồi cũng một lần xem và nghe trực tiếp GS Lê nói trên VTV1 và màn hình hiện lên dòng chữ: “Đông Triều không phải là quê gốc của nhà Trần”.

4 - Về đất phong cho Trần Liễu bị nhà nước tịch thu sau năm 1251, ông bảo tôi viết thế là sai. Thậm chí là “sai lầm tội lỗi với đức Thánh Trần và dòng dõi cành vàng lá  ngọc…”. Tôi là hậu duệ xa đời của dòng dõi cành vàng lá ngọc ấy. Tôi đâu dám bịa đặt để mắc “sai lầm tội lỗi” với chính đại thượng tổ của dòng họ mình.

Tôi muốn dịp nào ông qua thăm nhà thờ họ tôi, xây trên đất các cụ nhà tôi, từ thế kỉ XVII – XVIII,  Di sản văn hóa và lịch sử quốc gia. Lịch sử Xứ Đông gọi là Họ Trần Điền Trì, với đôi câu đối cổ: “Tổ tông công đức trường lưu, Đế, Bá tài bồi tiên Tức Mặc/ Tử tôn thừa dực kì hậu, Công, Hầu dật dự khởi Điền Trì”, với Gia phả kí sự, Phó Đô Ngự sử Trần Tiến viết xong năm 1764 hơn 300 trang, đã xuất bản thành sách, cờ biển vua ban, và nguyên vẹn 35 đạo sắc chính hiệu của nhà Lê, phong cho 3 vị “kế thế đăng khoa” (ông, cha, cháu đích - trực hệ) và các con cháu xa đời của đức Thánh Trần: 1 tước Công, 5 tước Hầu, 4 tước Bá, 7 đời nối nhau làm Tể tướng, Thượng thư, Tả Hữu Thị lang, Phó Đô Ngự sử, Đại Tướng quân, Bộ trưởng Quốc phòng và các tướng lãnh quốc gia từ năm 1670 đến năm 1877, được thờ ở cả thủ đô Hà Nội.

Người cuối cùng các tiên liệt ấy, chính là cụ nội tôi, Trần Tấn, tiểu tướng Cần Vương đánh Pháp của Nguyễn Thiện Thuật, đã hi sinh ở Bãi Sậy khi tham gia chỉ huy chống càn ngày 7 tháng 2 (âm lịch) năm 1877. Vì thế, khi thăm Trung Quốc, tôi đã tìm bằng được căn phòng (bỏ hoang) mà cụ Thuật đã sống và chết ở đó khi sang cầu viện nhà Thanh. Tôi cũng thông báo điều này với lãnh đạo tỉnh Hưng Yên. Bình thường, tôi không nói điều đó ra làm gì, bây giờ nhân có lời “mắng oan” của ông, tôi thấy buộc phải nói, nếu không thì tôi có “tội lỗi thật” với hai tầng tiên tổ nhà mình: “Tiền lưu quang hậu, hậu quang tiền”.  Mong được ông và bạn đọc cảm thông!

Người thừa kế đất phong của Trần Liễu là Trần Doãn, tước Vương là Vũ Thành Vương Doãn. Sau khi cha chết năm 1251, sợ triều đình trả thù vì tội cùng cha nổi loạn trên sông Cái để cướp ngôi vua, Doãn đem cả gia đình vợ con trốn sang Trung Quốc. Tôi viết là “sang Trung Quốc”, ông lại viết là tôi viết “trốn sang nhà Nguyên”. Ông nghĩ tôi nhầm, nên đã viết tôi nhầm với Trần Ích Tắc. Chao ôi! Sao tôi lại có thể nhầm “chết người” như thế được? Doãn không sang nhà Nguyên mà sang nhà Tống, lúc ấy Nguyên chưa diệt được Tống, do đó mới được tha tội chết, chỉ bị xóa tên khỏi dòng họ và toàn bộ đất phong của cha mà Doãn kế thừa đã bị tịch thu. Tôi căn cứ vào đâu mà “dám” viết thế.

Tôi chỉ dẫn ra một công trình nghiên cứu rất kĩ lưỡng công phu và chuyên sâu về ruộng đất, được viết rất chi tiết, cặn kẽ, mà tôi rất cảm phục của GS Trương Hữu Quýnh. Sách có tên Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỉ XI – XVIII, 2 tập, Nxb Khoa học xã hội ấn hành năm 1982.  Điều tôi nói trên ở tập I, GS Quýnh viết rất tường tận về lịch sử đất phong của các triều đại Phong kiến ở Việt Nam từ thời Ngô Quyền (có khảo cứu thêm ở thời nhà Tùy và thời nhà Đường bên Trung Hoa).

Ở thời Trần, GS Quýnh lấy đất phong cho Trần Liễu làm ví dụ, tôi chỉ trích có một đoạn – vì không thể dài hơn, ở tập I, trang 102 – 103: “Năm 1237, để giải quyết mối bất hòa trong nội bộ dòng họ, Trần Thái Tông đã lấy các xã An Phụ, An Dưỡng, An Sinh, An Hưng, An Bang cấp cho anh là Trần Liễu làm thang mộc ấp. Nhân tiện phong đất, Trần Liễu được phong luôn là An Sinh vương, nghĩa là lấy luôn tên của một xã trong thang mộc ấp làm tước hiệu. Những sử liệu của giai đoạn sau, chứng tỏ rằng, An Sinh là xã trung tâm của ấp. Sau này, đây là nơi  táng Trần Liễu, có miếu thờ, và có bia thần  đạo, bia hiện nay vẫn còn, song đã mòn hết chữ nhỏ. Khi Trần Liễu chết, do người con là Vũ Thành Vương Doãn, bỏ chạy trốn sang Trung Quốc, và bị bắt, nên các vua nhà Trần đã lấy lại đất phong”… 

Như vậy, xã An Sinh, huyện Kinh Môn, châu Đông Triều thời Trần, nơi phong cho Trần Liễu, cũng là nơi an táng Trần Liễu, là An Sinh hiện nay ở huyện Kinh Môn, Hải Dương, không phải xã An Sinh hiện nay ở huyện Đông Triều, Quảng Ninh, vì châu Đông Triều và huyện Đông Triều trong châu Đông Triều, là 2 vùng đất khác nhau, ta gộp 2  thành 1, nên ai ở Kinh Môn (hay ở huyện khác thuộc châu Đông Triều) cũng đều là ở huyện Đông Triều hiện nay cả (?).

Một số nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Húc, là một trong những ví dụ. Nguyễn Húc quê ở làng Kệ Sơn huyện Kinh Môn, châu Đông Triều (hiện vẫn còn đền thờ và mộ ông ở làng quê ông, Kinh Môn) nay viết quê ông ở huyện Đông Triều; Phạm Nhân Khanh,  có thể cả Trần Thì Kiến, làm quan đến chức Tể tướng... quê không rõ ở huyện nào thuộc châu Đông Triều, thì nay, đều ghi là người ở huyện Đông Triều hiện nay cả (?). Cũng như Đông Bắc gồm 10 tỉnh, trong  đó có Quảng Ninh, nhưng không hiểu sao, cứ những gì diễn ra ở Đông Bắc thì đều là ở Quảng Ninh hiện nay.

Thơ Hữu Loan “Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc”, thơ Vũ Cao: “Anh vào bộ đội lên Đông Bắc” (có thể là vùng căn cứ địa Thái Nguyên, chẳng hạn…)  sách địa chí và văn học Quảng Ninh đều ghi là ở Quảng Ninh. Trần Quốc Tảng theo truyền thuyết đóng quân ở Hải Dương, thì cũng là ở Quảng Ninh. Đến cả Lan Khai viết Lầm than ở Tuyên Quang thì cũng là ở Quảng Ninh. Về lịch sử, Quốc Nghiễn có công đánh giặc ở Lạng Sơn thì ghi là ở Hồng Gai, Quốc Tảng ở Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang… thì ghi là ở Cẩm Phả… Viết sử và văn học sử ở ta sướng thế, viết thế nào cũng được.

Nhân đây, xin thưa thêm một chi tiết lịch sử rất quan trọng khác mà nhiều người nhầm. Ấy là Trần Tung, anh ruột Quốc Tuấn được phong Hưng Ninh vương, sách và phim truyền hình (VTV3) ghi ông được phong năm 1289, sau trận thắng Bạch Đằng và đề cao ông đã thắng to trong trận đánh lớn ở Đông Triều, 1288, là sai. Thực ra ở đây là đánh du kích, giặc Nguyên mệt mỏi rồi TỰ RÚT. Ông được phong vương trong tang lễ cha ông là Trần Liễu, năm 1251, Thượng hoàng Thái Tông đến dự tang, thấy rất thương Tung, nên phong vương cho ông. Chỉ đơn giản vậy thôi. Lấy tư liệu đó ở đâu? Ngay trong Tuệ Trung Thượng sĩ hành trạng của Điều Ngự Giác Hoàng (Trần Nhân Tông), sách dùng trong nhà chùa.

Trong bài hồi âm, đoạn văn này của ông, về mặt trích dẫn tư liệu khoa học là tối kị. Ông viết: “Khi đó, “Hưng Vũ Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng Trí Vương Hiện đốc suất quân các xứ Bàng Hà, Na Sầm,Trà Hương, Yên Sinh, (đều là đất được phong cho Trần Liễu) tất cả 20 vạn quân, đến họp theo sự điều khiển của Hưng Đạo Vương để chống quân Nguyên” (Đại Việt Sử kí toàn thư, tr. 51). Tra trong Đại Việt Sử kí toàn thư mà ông ghi trên,  thì “khi đó” là năm 1284, đoạn văn trong quốc sử này ông chép trích lại, thiếu 3 chữ họp “ở Vạn Kiếp” (cũng không sao) nhưng lại thừa ra một cái ngoặc đơn cực kì quan trọng, hoàn toàn không có trong văn bản Đại Việt Sử kí toàn thư và cũng hoàn toàn không có trong thực tế lịch sử, do ông tự ý thêm vào (“đều là đất được phong cho Trần Liễu”).

Thưa ông, Đại Việt Sử kí toàn thư chỉ ghi Trần Liễu được phong đất có 1 lần, năm 1237, gồm “Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang”, trong đó trừ An Sinh mà GS Quýnh cho biết trong công trình nghiên cứu khoa học về ruộng đất đã ghi trên là An Sinh huyện Kinh Môn, châu Đông Triều, không phải An Sinh huyện Đông Triều hiện nay, còn các nơi khác ông ghi đất phong cho Trần Liễu là do ông tự phong cho Trần Liễu mà thôi. Đây là cái sai rất nghiêm trọng của ông, nếu xét về mặt lịch sử. Ông còn ghi, các vương tử - các con trai Trần Quốc Tuấn là đúng, vì đều được phong Vương, còn tước Hầu mà ông viết các con Quốc Tuấn được phong thì lại sai, vì hoàn toàn không có.

Thời Trần theo chế độ phân quyền, mỗi vương ở một vùng, trên đất được phong, có quân đội riêng, công an riêng, nhà tù riêng, chế độ thuế và phu phen tạp dịch cũng riêng, cho nên chỉ có thể điều quân ở đất mình được phong, và những đất ấy, theo Đại Việt Sử kí toàn thư nay đều thuộc Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, không có nơi nào hiện ở Quảng Ninh cả. Có thể hiểu các đất ấy là đất phong cho các cháu Trần Liễu, tức là các con Trần Hưng Đạo, chứ không phải phong cho Trần Liễu. Ông viết phong cho Trần Liễu là sai rất nghiêm trọng. Mà cái sai ấy, ông lại đổ lỗi cho Đại Việt Sử kí toàn thư là rất không nên. Như vậy, các con Trần Hưng Đạo, các cháu Trần Liễu, nếu có đất phong, thì không có đất nào ở Quảng Ninh hiện nay cả. Vậy mà sách báo, kể cả sách giáo khoa lịch sử địa phương (và bia đá các di tích) ở Quảng Ninh, đều ghi đất phong cho Quốc Nghiễn ở Hồng Gai, đất phong cho Quốc Tảng ở Cửa Ông hiện nay.

Tôi đã mất nhiều chục năm và cũng chịu không ít phiền toái vì cố gắng làm rõ những cái sai này của các nhà viết sử. Tôi vẫn còn lưu số báo ông trả lời phỏng vấn báo Quảng Ninh, tôi ghi ra đây nguyên văn một đoạn (ông ám chỉ tôi là người nêu ra các vấn đề này – dù không nêu tên tôi - cũng vẫn về tập sách đồ sộ của ông mà chúng ta đang cùng trao đổi):

Những vấn đề luôn có tính thời sự - 1

Ba tập Di sản Hán Nôm tỉnh Quảng Ninh

Giáo sư Hoàng Giáp: Quảng Ninh có di sản Hán Nôm rất đồ sộ - Phạm Học thực hiện (phỏng vấn) - QNĐT cập nhật 14.58 ngày Chủ nhật 09/11/2014 (GMT+7)

- Vậy theo GS, chuyện TQT (Trần Quốc Tảng) ra Cửa Ông, mất ở đây là không còn gì phải bàn cãi?

+ Đúng thế. Nói TQT (Trần Quốc Tảng) không ở đó, không mất ở đó mà chỉ là nhầm lẫn với T Tung... ( Trần Tung) tôi nghĩ là thiếu cơ sở khoa học, thiếu căn cứ lịch sử… Trong năm nay, tôi sẽ đưa ra một công trình để chứng minh, làm sáng tỏ vấn đề này, với đầy đủ bằng chứng lịch sử ” (báo Quảng Ninh Cuối tuần số  667 (715)  ngày 09/ 11 / 2014 và cập nhật ngay trên Quảng Ninh điện tử lúc 14.58 cùng ngày).

Vậy mà bạn đọc chờ ông mãi, đến tận ngày hôm nay, sau rất nhiều năm, vẫn không hề thấy có một chữ nào của công trình đó cả. Cũng thông cảm với ông, vì thực tế và lịch sử, điều ấy hoàn toàn không có. Tôi rất trân trọng ông, tin là ông nhận ra điều ấy, khi hé lộ một phần trong bài hồi âm (ở đoạn trên của điều 4) mà tôi đang thưa lại với ông và bạn đọc đây. Còn nhầm Trần Quốc Tảng (cháu ruột) với Trần Tung (bác ruột) là sai lầm vô cùng nghiêm trọng, tác hại hết sức ghê gớm đã trên 200 năm nay của Bồi tụng Bùi Huy Bích. Tất cả sự lộn xộn về lịch sử thời Trần, liên quan đến Trần Quốc Tảng, đều từ cái sai rất lớn không lường được hậu quả, và không sao sửa chưã được này của  Bùi Huy Bích (mất năm 1818).

5 - Về sáng tác của Huyền Quang, điều này tôi biểu dương công của ông, xác định  kiến giải của ông là đúng, không hiểu ông đọc thế nào lại bảo là tôi viết ông sai, và ông tự cho mình “phỏng đoán chưa chính xác, xin được khảo cứu cải chính”. Không có gì phải cải chính cả, thưa ông. Ngay đại diện Ban Quản lí chùa Côn Sơn cũng có lần nói với tôi đại khái như ông viết là Huyền Quang tu chủ yếu ở chùa Côn Sơn thuộc Yên Tử - Chí Linh, sáng tác chủ yếu ở đây và mất ở đây. Tôi biểu dương ông điều này, vì Quảng Ninh, viết về thơ Huyền Quang trước nay chỉ nói duy nhất một điều là Huyền Quang làm thơ ở Yên Tử - Uông Bí và xếp ông là nhà thơ bản địa (Quảng Ninh).

Có điều này nữa, bạn đọc cũng hay nhầm. Khi nói Yên Tử, ai cũng chỉ nghĩ đến Uông Bí, mà theo khái niệm xưa, Yên Tử là tên chung chỉ vùng núi Phật, từ Phả Lại - Chí Linh (trước thuộc tỉnh Bắc Ninh là huyện Phượng Nhãn) qua Đông Triều (trước 1962, thuộc tỉnh Hải Dương), đến Uông Bí, Hạ Long, Cái Bầu, mà đỉnh cao nhất là Yên Tử - Uông Bí, nơi Đệ Nhất tổ Trúc Lâm giao cho Bảo Sái là người chủ yếu trông coi. Trần Nhân Tông nhiều lần đến Yên Tử - Uông Bí, nhưng tu nhiều năm và mất ở Ngọa Vân, thuộc Yên Tử - Đông Triều.

Ngay GS sử học nổi tiếng Lê Văn Lan trong phim tài liệu lịch sử về Yên Tử (hiện còn lưu ở Yên Tử - Uông Bí), cũng đứng trước sân chùa Hoa Yên, chỉ tay xuống Tháp Tổ mà khẳng định như đinh đóng cột rằng: “Trần Nhân Tông mất ở đây”, tức là mất ở trước sân chùa Hoa Yên thuộc Yên Tử - Uông Bí, mà quên rằng Đại Việt Sử ký Toàn thư từ năm 1497, đã ghi: Trần Nhân Tông mất ở am Ngọa Vân, thuộc Yên Tử - Đông Triều, sau lưng ông hơn 40 km (Gần đây, có tập sách nào không còn những nhầm lẫn này, là do tôi đề nghị sửa lại (và biên tập đã nghe) khi tôi được mời tham gia thẩm định).

6 - Về bài thơ núi Mèo, đến bây giờ, trong bài hồi âm, ông Hoàng Giáp vẫn viết: “Nhiều học giả cho là thơ ngự đề của Phật hoàng Trần Nhân Tông”. Tôi nghĩ là ông hoàn toàn không có thông tin về một Hội thảo khoa học quốc gia đã thảo luận về Thiên Long Uyển và núi Mèo, hai núi gần nhau, thuộc xã Yên Đức, Đông Triều, tháng 12 năm 2021 vừa qua, tại TP Uông Bí. Tôi không đếm được là có mấy chục học giả, gồm các GS.TS, PGS.TS, TS, NGND, ThS… viết bài và thảo luận, văn bản in trong Kỉ yếu khoa học quốc gia, 22 bài, có bài là công trình nghiên cứu của 6 học giả, dày đến 284 trang khổ lớn.

Tất cả các vị đều để mắt săm soi vào từng chữ ở núi Thiên Liêu, ở núi Mèo… Tuyệt đối không có một ai, nói 1 câu, viết 1chữ về vua Trần đã đến núi Mèo và đã đề thơ ở núi Mèo, TUYỆT ĐỐI KHÔNG. Và như thế, vua Trần Nhân Tông không phải là tác giả bài thơ, là quan niệm chung của hàng chục nhà khoa học họp ở Uông Bí, tháng 12/2021. Và như thế, việc đó đã XONG rồi, không bàn nữa. Tôi chỉ là người nói đầu tiên cách nay từ 30 -  40  năm. Đến nay, chưa có một nhà khoa học nào phản đối tôi về việc đó.

Nhân có yêu cầu cần làm rõ của ông mà tôi xin thưa thêm. Thơ Nôm thời Trần đến nay đã thất lạc hết. Đến thời Lê, hai thiên tài là Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông, chữ trong thơ Nôm còn đơn giản, nhịp điệu 3/3, xen lẫn 4/3, thực luận không rõ ràng. Ví dụ thơ Nguyễn Trãi: “Con đòi trốn/ dường ai quyến// Bà ngựa gầy/ thiếu kẻ chăn// Ao bởi hẹp hòi/ khôn thả cá// Nhà quen thú thứa/ ngại nuôi vằn…”. Thơ Lê Thánh Tông: “Trống dời canh/ còn đọc sách// Chiêng xế bóng/ chửa thôi chầu…//  Mựa bảo áo vàn / chăng có việc// Để muôn sự/ trước vào tâu”.

Còn đây, gọi là Thơ Ngự đề của Nhân Tông hoàng đế, TRƯỚC ĐÓ khoảng 200 năm. Câu chữ chải chuốt, các cặp đối rất chuẩn, thực luận rất phân minh. Làm sao có được? Hai câu thực: “Đá xương đất thịt/ da không mốc// Cỏ vện hoa vằn/ dạ chẳng meo”. Hai câu luận: “Cáo thỏ kinh hơi/  rừng vắng ngắt// Kinh nghê tăm bặt/ nước trong veo”. Đây là thơ đặc Nguyễn, gán cho vua Trần Nhân Tông cũng như một số bài thơ khác, gán cho Hàn Thuyên, Trần Khánh Dư…

Vậy mà trong bộ sách 3 tập của mình, ông Hoàng Giáp khẳng định đến 4 lần “đã có ở thời Trần”, tức là của vua Trần  Nhân Tông viết lúc sinh  thời, lần 1 ở tập I, trang 19, lần 2 ở tập II, trang 19 và lần 3 ở tập III, trang 20 và trang 285. Tôi nghĩ, đây là một trong những cái sai đáng tiếc nhất của bộ sách công phu và nhiều giá trị của ông.

Trần Nhuận Minh

Tin liên quan

Tin mới nhất

Đường lên Điện Biên hào hùng và đầy xúc cảm qua 70 tác phẩm mỹ thuật

Đường lên Điện Biên hào hùng và đầy xúc cảm qua 70 tác phẩm mỹ thuật

Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 – 07/5/2024), Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam tổ chức triển lãm “Đường lên Điện Biên”, giới thiệu tới công chúng 70 tác phẩm hội họa, đồ hoạ, điêu khắc, ký hoạ, áp phích, sáng tác trong giai đoạn 1949 - 2009 của 34 tác giả, được lựa chọn trong bộ sưu tập của Bảo tàng.