Trịnh Hoài Đức - nhà viết kịch, nhà thơ tài hoa
Với gần 200 vở kịch, chèo phát sóng trên Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, nhận hàng chục Huy chương Vàng hội diễn toàn quốc, hàng ngàn bài thơ được công bố, cây bút tài hoa Trịnh Hoài Đức đã góp phần quan trọng làm nên diện mạo đa dạng, sinh động cho Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) Vĩnh Phú - Phú Thọ những năm 1976 - 2005.
Sống giản dị, xuề xòa đến mức luộm thuộm, nhưng đọc ông, tiếp xúc với ông mọi người đều thấy gần gũi, thán phục bởi sự thông minh tinh tế, sắc sảo, uyên thâm trong từng câu chữ, cả sự biến báo tài tình đầy thuyết phục nếu như tranh luận về vấn đề gì đó. Nhà văn Văn Chinh từng nói: “Trịnh Hoài Đức xứng đáng xếp vào hàng những người thông minh nhất nước Nam”.
Nhà thơ, nhà viết kịch Trịnh Hoài Đức đọc thơ trong Ngày thơ Việt Nam năm 2002.
Năm 1982, tốt nghiệp Trường Văn hóa Nghệ thuật tỉnh, tôi được Ty Văn hóa Thông tin nhận về công tác tại Nhà Triển lãm tỉnh. Ngày ấy mọi thứ còn rất bỡ ngỡ với một nhân viên mới như tôi. Học trong lĩnh vực nghệ thuật nên lớp chúng tôi thỉnh thoảng lại có một số văn nghệ sĩ, đặc biệt là các họa sĩ ở tỉnh là bạn của thầy tôi - Họa sĩ Vương Chùy ghé thăm trường và trò chuyện nghề nghiệp. Cũng từ đó tôi nghe và được biết những tên tuổi như: Họa sĩ Ngô Quang Nam, Nguyễn Việt Thọ, Hoàng Hữu, Nguyễn Đài, Trần Đình Ninh… Rồi nhạc sĩ Cao Khắc Thùy, nhà viết kịch Trịnh Hoài Đức, các nhà văn, nhà thơ Nguyễn Hữu Nhàn, Sao Mai, Nguyễn Đình Ảnh, Kim Dũng, Khánh Hoài… Công tác ở Ty Văn hóa Thông tin tôi thường xuyên gặp nhà viết kịch Trịnh Hoài Đức bởi nhà ông ở gần bệnh viện tỉnh, mà bệnh viện lại ngay sau Ty Văn hóa, vợ ông lại làm trong viện. Ông cũng thường xuyên đến Ty Văn hóa để trao đổi công việc, họp hành, cũng có lúc gặp nhà viết kịch Nguyễn Kính Mời khi đó là Phó Ty.
Tôi nhớ ngày ấy nhà ông còn có cái quán ngay cổng viện, cạnh đó là quán của gia đình tác giả thơ Ngô Kim Quỳnh, ngoài những lúc đi thực tế xuống cơ sở viết kịch bản, hay dựng vở ông thường xuyên có mặt tại quán, đàm đạo văn chương với cánh văn nghệ sĩ, chuyện tào lao với mọi người và ngồi uống rượu. Ông có nhiều bạn ở khắp mọi nơi, mọi lứa tuổi bởi tính ông dễ gần, dễ mến. Thế nên một họa sĩ trẻ như tôi bấy giờ nhanh chóng được ông yêu quý coi như người trong nhà. Tôi cũng thường xuyên lui tới gia đình ông và trở nên gần gũi, thân mật với gia đình. Cánh trẻ chúng tôi lúc bấy giờ như: Nguyễn Lưu, Tuấn Râu, Quang Thái, Nguyễn Thiện Kế, Ngô Kim Đỉnh, Bá Đạo, Hoàng Tự Dung, Đỗ Ngọc Dũng… đều được ông quý mến. Nhưng có lẽ tôi và Ngô Kim Đỉnh gần gũi ông hơn, vì với tôi sau những thành công ban đầu, tôi được gia đình ông mời luyện thi cho con ông theo nghề vẽ, còn Ngô Kim Đỉnh khi rời quân ngũ thường cưỡi con xe máy hình con vịt màu tím ghé quán nhà ông anh trai Ngô Kim Quỳnh cạnh quán nhà ông, lại sáng tác thơ, viết phê bình thế nên thường xuyên tiếp xúc và thân tình với ông.
Nhà thơ, nhà viết kịch Trịnh Hoài Đức (giữa), nhà thơ Ngô Kim Đỉnh, họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng tại tòa soạn Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ.
Cuộc sống khó khăn thiếu thốn thời ấy, cốc bia hơi, chén trà, thanh kẹo lạc, quả trứng vịt lộn đều là những món xa xỉ. Thế nhưng thi thoảng ông và chúng tôi vẫn cứ hẹn hò, tụ tập, trò chuyện và cùng nâng cốc. Có lúc ông cũng rủ tôi cùng đi xuống cơ sở, hôm lại sang Hội VHNT tỉnh, nơi ông công tác. Nhìn những văn nghệ sĩ tên tuổi của tỉnh đi đi lại lại qua các phòng, nói những chuyện văn chương nghệ thuật cao siêu tôi rất nể sợ. Được tiếp xúc với những tên tuổi văn nghệ sĩ, điều đó đã khiến tôi nuôi dưỡng hoài bão trở thành một họa sĩ đích thực.
Miệt mài sáng tác, năm 1984, 1985 tôi nhận giải thưởng quốc tế về tranh áp phích chính trị tổ chức tại Liên Xô và Tiệp Khắc. Nhà viết kịch Trịnh Hoài Đức đến chúc mừng và khuyên tôi nên chuyển về Hội để có điều kiện giao lưu, học hỏi và sáng tác tốt hơn, ông bảo tôi: “Hội VHNT là một địa chỉ cao đạo”, ông nhấn mạnh hai từ “cao đạo”. Nghe lời ông tôi đã quyết tâm xin chuyển về hội, bấy giờ ở Hội, họa sĩ - nhà thơ Hoàng Hữu tác giả của bài thơ nổi tiếng Hai nửa vầng trăng mới mất được hơn năm, họa sĩ Nguyễn Đài cũng đến tuổi nghỉ hưu. Tôi đề đạt và được nhạc sĩ Cao Khắc Thuỳ - Phó Chủ tịch Thường trực Hội chấp thuận. Nhưng trớ trêu bên Ty Văn hóa lại không cho tôi chuyển với lý do là tôi được ngành văn hóa tỉnh đào tạo nên phải phục vụ ngành.
Sau nhiều lần từ chối, tôi đánh liều đến gặp ông Bí thư Tỉnh ủy lúc đó là ông Lê Huy Ngọ nhờ ông can thiệp. Cuối cùng Ty Văn hóa cũng đồng ý cho tôi chuyển về Hội VHNT tỉnh. Tôi rất vui mừng vì bước ngoặt này trong đời. Nhưng ngày nay thì sẽ là một việc làm điên rồ, vì không ai lại rời bỏ một cơ quan nhà nước để về một hội nghề nghiệp.
Thế rồi những năm tháng công tác ở Hội, chứng kiến biết bao thăng trầm và vui buồn. Được các thế hệ văn nghệ sĩ đi trước ưu ái, quý mến. Đặc biệt càng trở nên thân thiết với nhà viết kịch Trịnh Hoài Đức. Cũng phải nói ngay rằng cơ quan Hội VHNT ngày ấy không quản lý hành chính cán bộ, mà chỉ quản lý bằng sáng tạo tác phẩm. Nhà viết kịch Trịnh Hoài Đức hầu như hàng tháng ông chỉ đến cơ quan vài ba ngày, có khi chỉ về để nhận lương. Hầu hết thời gian ông xuống các địa phương, cơ quan, đơn vị tìm hiểu thực tế để sáng tác kịch bản, có lần đi cơ sở lâu lâu mới về, gặp tôi ông hỏi vui: “Cơ quan Hội còn ở đấy hay chuyển đi đâu rồi Dũng ơi?”.
Quãng thời gian 1985-1995, cuộc sống khó khăn khiến cho mọi công chức viên chức, “chân trong, chân ngoài” lo toan cho cuộc sống gia đình. Trịnh Hoài Đức là một tiêu biểu, vừa làm việc cơ quan, lo biên tập thẩm định tác phẩm của hội viên. Chính tôi cũng không biết ông đọc tác phẩm của hội viên khi nào, mà trao đổi với bất kỳ tác giả nào về tác phẩm của họ, ông đều nói vanh vách, chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu, hay, dở của tác phẩm đầy sức thuyết phục khiến các tác giả đều kính nể, bái phục sự thông minh nhạy bén của ông trong thẩm định. Đôi khi ông còn phát hiện ra dụng ý của tác phẩm, tìm ra cái hay cái đẹp trong mỗi câu thơ, ý văn khiến tác giả hoàn toàn bất ngờ, vượt ra ngoài mong muốn của tác giả.
Thời điểm này, hoạt động sân khấu truyền thanh phát triển rất mạnh, hầu như các cấp, các ngành, địa phương đều muốn có các hoạt cảnh, hay vở diễn về ngành mình, địa phương mình trên làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam hay Đài Truyền hình Việt Nam, nhất là phát vào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương, hay đón xuân mới hàng năm. Đó chính là mảnh đất màu mỡ để nhà viết kịch Trịnh Hoài Đức thỏa sức sáng tạo, ông đi nhiều, viết nhiều, có khi chỉ một đêm đã viết xong vở kịch. Vở diễn nào của ông cũng hấp dẫn, được công chúng đón nhận. Một thời mà người dân cả nước thường được nghe, được xem những vở diễn của ông viết về miền đất, con người trung du. Hầu như những kịch bản của ông không nhạt nhòa, hiền lành vô vị như một số kịch bản thường gặp thời ấy. Trái lại nó là những tác phẩm có vấn đề, khiến người đọc, người nghe, xem phải suy ngẫm, trăn trở trước những điều mà ông đã gửi gắm. Tính nhân văn trong mỗi kịch bản của ông luôn sâu đậm tình người. tình đồng nghiệp. Có thể nói ngay từ vở chèo đầu tay viết từ năm 1962 - vở Hoãn cưới đạt giải của Ty Văn hóa Thông tin lúc ấy. Ông đã tỏ ra là một cây bút chững chạc, đến vở Mất súng tại hội diễn nghệ thuật sân khấu toàn tỉnh, khán giả đã biết đến ông như một nhà viết kịch thực sự tài hoa.
Ông có những vở kịch dài được Đoàn Kịch nói Trung ương, Đoàn Chèo Hà Nội thể hiện như: Lũ xoáy chân đồi, Chân dung chiến sĩ, Mùa xuân Trung du, Sống như cuộc đời của mẹ từng đoạt Huy chương Vàng tại Hội diễn Sân khấu toàn quốc, thính giả Đài Tiếng nói Việt Nam từng xúc động sâu sắc trước những kịch bản này của ông. Chính những kịch bản này đã minh chứng tài năng viết kịch của ông. Trịnh Hoài Đức không chỉ có các kịch bản thời sự, mà còn thành công trong các vở chính kịch. Kịch của Trịnh Hoài Đức ngoài chất hài ý nhị, sâu cay, cười ra nước mắt còn bao hàm cả triết lý sâu sắc về thế giới quan, nhân sinh quan như trong Lời ru thuở ấy, Sống như cuộc đời của mẹ. Bên cạnh hàng loạt các kịch bản ngắn như: Gạch ra lò, Tứ quý, Con tôi à, Tưởng già hóa trẻ… đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ tuyên truyền, nó cũng là thông điệp để con người phải luôn hoàn thiện mình, phải dần từ bỏ cái thằng người trong chính mình để có được nhân cách con người đúng nghĩa. Xuyên suốt trong kịch bản của Trịnh Hoài Đức chính là sự đề cao con người, tôn trọng con người. Phải chăng vậy mà trong phòng ông có hai câu thơ đề từ cho chính cuộc đời mình:
Căn phòng và cái đầu thôi
Mà thu được cả đất trời vào trong
Nghệ sĩ Ưu tú Vũ Hà, Phó Ban văn nghệ, Trưởng phòng sân khấu Đài Tiếng nói Việt Nam từng nhận xét: “Trịnh Hoài Đức là nhà viết kịch tài hoa vào bậc nhất. Một đêm ông có thể viết xong một vở kịch dài. Có lần do yêu cầu của Đài chúng tôi cử biên tập về gặp ông đặt viết vở. Ông viết liền một mạch xong ngay không phải sửa một chữ nào, kịch bản của ông có tính văn học rất cao, hình tượng nhân vật sâu sắc. Trong lĩnh vực thơ Trịnh Hoài Đức là người: “Xuất khẩu thành thơ” thơ ông ngôn ngữ dung dị tới mức bác học mà thấm đượm tình người, có sức ám ảnh người đọc đến khôn cùng. Ông là một tài năng lớn.
Quả thực không chỉ là nhà viết kịch tài hoa, ông còn là một nhà thơ đích thực, không kém tài sử dụng ngôn từ, tính trữ tình và sắc sảo như bất kỳ nhà thơ chuyên nghiệp nào. Nếu như ai đó tiếp xúc với ông thì đều có chung một nhận xét: Trịnh Hoài Đức là người thông minh, có biệt tài đọc một biết mười, ông là người đa tài ở nhiều lĩnh vực, ông sinh ra để viết kịch, làm thơ, đạo diễn sân khấu… Trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào ông diễn thuyết hay ứng khẩu thơ, cũng có sức thu hút người nghe đến kỳ lạ. Hầu như từ ngoại hình, tính cách đến ngôn ngữ, hay hành động của ông đầy chất sân khấu, tiếp xúc với ông dù chỉ mấy câu thoại ngắn cũng mang tính kịch. Trịnh Hoài Đức được đồng nghiệp thừa nhận là người phản xạ nhanh, nhạy, ứng biến linh hoạt, sắc sảo xứng đáng xếp vào hàng những người thông minh. Những câu thơ của ông như gieo vào lòng người cái tình sâu lắng, ngôn ngữ giản dị mà nhân văn đa nghĩa đầy tính bác học, nhiều câu thơ của ông như “thần bút” mách bảo. Ông có nhiều bài về cha, mẹ, vợ, con, những người thân trong gia đình rất thành công.
Dù là người ngoại đạo văn học nhưng tôi rất nhớ bài thơ ông viết về cha mình - người cha nghiện rượu với nhan đề: Với cha.
Ngày nào cha cũng đẫm trong say
Lúc men cháy luôn mồm cha chửi mẹ
Ấm chén lọ chai tìm về sứt mẻ
Quả sấu chua không thoa nổi cơn phiền
Bỗng một chiều lời cáu gắt lặng thinh
Cha ra đi cùng nơi men ấy
Lệ mẹ và con chảy về đâu nhỉ
Chỉ mong người trở lại với cơn say.
Bài thơ rất xúc động khắc họa tình cảnh gia đình ông, với người cha nghiện rượu luôn trong những cơn say chửi mắng vợ con, các anh em ông sợ hãi lăn lê dưới nền nhà, khóc thương mẹ, thương cha trong cơn say đến thôi mình. Đặc biệt hơn, khi bỗng một chiều cha ra đi cùng hơi men ấy. Thì cái tình của ông, anh em ông lại được dồn nén đẩy lên, rồi lại lắng xuống để chỉ mong người cha được sống lại để trở lại với cơn say… Mong ông cụ cứ say nhưng còn đấy không phải chia lìa anh em ông. Ở một bài thơ khác Trịnh Hoài Đức viết về mẹ bài Cái lẫn với những câu đầy gan ruột xúc động như:
Ăn rồi mẹ bảo là chưa
Trời đang nắng mẹ bảo mưa thế này
Nếp thơm đặt giữa lòng tay
Mẹ cười ứa lệ đất này đồng xa
Chiều nay mẹ đã yên nằm
Tiếng kèn rước mẹ về thăm xóm đồi
Mẹ mang cái lẫn đi rồi
Để cho cái tỉnh mồ côi sững sở.
Hay thơ viết về vợ con ông như có phần như tự trách mình, để sau đó ông có hẳn một trường ca viết về vợ: Làm thơ viết kịch cả đời/Chưa có một lời về vợ, về con/Thủy chung tình nghĩa chẳng mòn/Còn thơ tâm sự hãy còn, vợ ơi? Hay trong bài thơ Tương tư: Ai tương tư mấy vợ người/ Tôi tương tư đến mười mươi vợ mình/ Càng nhìn em lại càng xinh/ Bước đi dè dặt tính tình hiền hơn…Ở chủ đề nhân tình thế thái ông có nhiều bài thơ tâm sự đầy triết lý sâu sắc như: Với một vương triều, Thủ trưởng nghỉ hưu, Có nghe nhân kế…
Đã từng Nam, Bắc, Đông, Tây
Một thời chém gió vung tay một thời
Vời xa tiếng mẹ ru hời
Quanh mình xúm xít những lời tụng ca
Một thời là mẹ là cha
Bàn dân thiên hạ đều là chúng sinh
Mũi đao khi gục mái đình
Mình về đẽo vọt bóng mình vườn sau… “Có nghe nhân thế”.
Đặc biệt với bài thơ viết về trăng, khi bài thơ được công bố, đã gây một âm hưởng đến bất ngờ. Nhất là sau khi bài bình đến với bài thơ hay của nhà thơ Nguyễn Hưng Hải đăng trên Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ: Bài thơ Trăng.
Vầng trăng như một chiếc muôi
Đêm đêm hớt váng mây trời chảy qua
Hớt từ phận Cuội, thân đa
Hớt cho tới cõi trăng già chưa thôi.
Nguyễn Hưng Hải cho rằng: Câu thơ mở đầu bài thơ như một sự ví von đầy khơi gợi, nhiều liên tưởng... “Chiếc muôi” ở giữa trời “Đêm đêm hớt váng”... Giật mình thấy Trịnh Hoài Đức đang nhìn thấu cả trốn “cao siêu” phải chăng là lời cảnh báo, giải thiêng về huyền thoại “Trăng” với cái nhìn này Trịnh Hoài Đức khiến chúng ta phải thay đổi cách nhìn truyền thống cứ “Trăng” là phải đẹp, cứ trên cao là phải tỏa sáng... Hớt ở đây là hớt cái phần nổi, cái phần màu mỡ. Vậy thì ai hớt, dù không rõ là ai nhưng mọi người hình dung được kẻ dùng muôi trăng, đêm đêm hớt váng thuộc tầng lớp nào...?
Hàng trước từ trái sang: Nhà viết kịch - nhà thơ Trịnh Hoài Đức, nhà thơ Trần Đăng Khoa, họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng, các nhà văn, nhà thơ: Kim Dũng, Nguyễn Hữu Nhàn ; hàng sau: các nhà văn, nhà thơ :Nguyễn Hưng Hải, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Hòa, Đỗ Bích Thúy, Ngô Kim Đỉnh, Trần Dư tại Hội VHNT Phú Thọ năm 2001.
Tạp chí ra gây xôn xao dư luận, liên tục có người đến hỏi mua tạp chí Mấy hôm sau, đồng chí Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nguyễn Văn Xuất sang làm việc với Chủ tịch Hội và Ban biên tập rồi đi đến thống nhất: không bàn tán về bài thơ, lơ đi mọi dư luận, không phát hành tiếp tạp chí đến các địa chỉ chưa gửi… Quả nhiên cách xử lý này của Trưởng ban Tuyên giáo lúc bấy giờ thật hiệu quả, rồi mọi việc cũng lắng xuống. Nguyễn Hưng Hải cho rằng: “đây tuyệt nhiên không phải sự hạ bệ “thần tượng” mà là cảnh báo về nhân cách của “thần tượng” bài thơ như một tiếng chuông cảnh tỉnh về sự xuống cấp của đạo đức xã hội. Hai câu tiếp: “Hớt từ phận cuội, thân đa /Hớt cho tới cõi trăng già chưa thôi… Tuyệt chiêu? Thấy gai người, thấy day dứt, câu thơ thứ ba như thể trời cho nhuyễn và “kín” đến độ tinh xảo.
Xưa nay bao gian dối ở đời đều được “gán” cho Cuội cả. Cuội là biểu tượng lừa đảo, lưu manh. Nhưng đến như Cuội còn bị “hớt” thì chúng ta chỉ còn chắp tay cúi lạy, bất lực… Trăng như là “chiếc muôi”, đấy là trăng non, là biểu hiện của sự trẻ trung, chưa viên mãn. Nhưng ở đây trẻ đã hớt, về già vẫn chưa thôi thì lòng tham thực sự vô đáy, mà đã là bản chất của những kẻ tha hóa ngồi trên cao “hớt váng” của người dân… Đây được xem như một “thi phẩm tuyệt vời” về trăng của thi sĩ Trịnh Hoài Đức trong tiến trình đổi mới thơ ca đương đại.
Quãng thời gian mười lăm năm từ 1990-2004 là Ủy viên Thường trực, rồi Phó Chủ tịch Hội kiêm Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ. Nhà thơ, nhà viết kịch Trịnh Hoài Đức đã để lại dấu ấn đậm nét đối với tất cả các hội viên, bởi sự thông minh sắc sảo trong thẩm định, phân tích tác phẩm. Sự quí mến, nể trọng của những cộng sự trong tòa soạn như: Nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh, các nhà văn Sao Mai, Xuân Mai, Hoàng Bình Trọng, Nguyễn Hữu Nhàn, nhà thơ Kim Dũng, nhạc sĩ Triệu Huyền Ngọc, họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng, nhà thơ Ngô Kim Đỉnh, nhà văn Nguyễn Hồng Chính, nhà văn Đỗ Xuân Thu…, rồi cả những cộng tác thân thuộc như các nhà văn, nhà thơ: Nguyễn Hưng Hải, Nguyễn Tham Thiện Kế, Trần Dư, Đàm Tuất, Điền Ngọc Phách… Là người thông minh lại tốt tính, xuề xòa Trịnh Hoài Đức luôn để lại tình cảm tốt đẹp đối với tất cả mọi người. Đặc biệt là với anh chị em cơ quan Văn phòng Hội: Nguyễn Hồi, Trần Nhật, Kim Doanh, Nguyễn Tuất, Xuân Hương…
Tiếc rằng, giờ đây ông đã đi xa hơn mười năm rồi, bời một căn bệnh quái ác. Người con trưởng của ông cũng theo ông. Nhưng bù lại vợ ông, con cháu ông hôm nay đều khỏe mạnh trưởng thành, có nhà cao cửa rộng, có vị trí xã hội xứng đáng và sống hiếu thảo với các bậc sinh thành. Ngồi viết những dòng này về ông, lại thấy ùa về biết bao nhiêu kỉ niệm vui buồn cùng ông, gia đình ông suốt những năm tháng đã qua. Thấy hình ảnh ông như hôm nào đang nhai trầu bỏm bẻm, ngồi sau xe máy tôi suốt dặm dài trong, ngoài tỉnh bươn chải kiếm sống của một thời khốn khó.
Trịnh Hoài Đức, sinh ngày 14 tháng 7 năm Ất Dậu 1943 tại Thụy Vân - Việt Trì. Ông là hội viên Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch phụ trách Hội VHNT Phú Thọ, nguyên Đại biểu HĐND tỉnh Vĩnh Phú - Phú Thọ khóa 1995-2000, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Đất Tổ, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Hùng Vương, 8 Huy chương vàng dành cho kịch bản tại hội diễn toàn quốc, cũng nhiều giải thưởng cao về thơ; Huy chương Vì Sự nghiệp Văn hóa Tư tưởng, Vì Sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Vì Sự nghiệp Văn hóa Thông tin, Vì Sự nghiệp Sân khấu Việt Nam, từng tham gia quân đội từ 1996-1975. |

LTS: Ngày 5 tháng 12 năm 2013, Tổ chức UNESCO công nhận đờn ca tài tử Nam Bộ Việt Nam là "Di sản văn hóa phi vật thể của...
Bình luận