Đến Normandie nhớ... chị Võ Thị Sáu

Tôi lặng lẽ nghiêng mình trước tượng Gioanna, trong khoảnh khắc thoáng qua, lại liên tưởng tới lần mình đã đứng lặng như thế trước mộ của liệt sĩ Võ Thị Sáu ở nghĩa trang Hàng Dương - Côn Đảo. Có một sự liên hệ trái chiều xao xuyến trong lòng, người nữ anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam bị con cháu của người nữ anh hùng giải phóng dân tộc Pháp sát hại, chẳng biết trên thiên đường, hai vị liệt nữ sẽ nói gì với nhau về những éo le lịch sử như thế này?

Trong thời gian làm việc ở Pháp, do công việc mà tôi có dịp ghé qua thành phố Rouen, cũng nằm trên bờ sông Seine nhưng ở phía hạ lưu gần biển. Rouen là thủ phủ vùng Normandie rộng lớn Tây Bắc nước Pháp, mà cho mãi tới năm 1559, sau cuộc chiến tranh Trăm Năm, nước Pháp mới giành lại được quyền kiểm soát từ tay nước Anh. 

Normandie là vùng trồng nho làm rượu vang, cũng là vùng có ngành công nghiệp dệt rất phát triển, đặc biệt ở đây có nhiều cơ sở sản xuất ngói đen độc đáo của Pháp. Những toà nhà, dinh thự xây dựng ở Hà Nội, ở Sài Gòn theo phong cách kiến trúc Pháp xưa kia, phần lớn được lợp ngói đen Acnoa của vùng này.

Lần đầu đứng trên đỉnh đồi cao nhất của thị trấn Darnétal nhìn vào nội thành Rouen, tôi chỉ thấy một màu đen mái nhà lớp lớp. Cảnh tượng gợi nhớ về thời nhà máy điện Yên Phụ, Hà Nội còn hoạt động, cả một vùng Nguyễn Trường Tộ, Phó Đức Chính, Châu Long, Ngũ Xã... bụi than phủ đầy cũng một màu đen mái nhà như thế. Hoá ra ngói đen là đặc sản của vùng này, "nhà trồng được", nên kiểu kiến trúc ở đây có lẽ vì thế mà tất thảy đều mái ngói đen dốc đứng, trông thật độc đáo.

Trong thành phố Rouen, ở ngay cạnh khu Chợ Cũ trung tâm thành phố, có đài tưởng niệm nữ anh hùng Gioanna của dân tộc Pháp. Tại đúng nơi này, ngày 30/5/1431, quân xâm lược Anh đã thiêu sống Gioanna  - người nữ tướng chỉ huy tài ba của dân quân Pháp - khi ấy bà mới 19 tuổi. Năm 1920, bà được phong thánh của dân tộc Pháp, và ngày lễ kỷ niệm của bà trở thành ngày lễ chính của cả nước Pháp.

Tượng bà nữ thánh tạc bằng đá cẩm thạch, bà mặc một tấm áo chùng rủ tới sát đất, khuôn mặt trái xoan thánh thiện ngẩng cao, đôi tay chắp trên ngực như đang cầu nguyện cho nền độc lập và thống nhất của nước Pháp. Dưới chân bức tượng nơi hình tượng những ngọn lửa đang cuồn cuộn bốc lên, những khóm địa lan xanh ngát đang trổ những bông hoa vàng.

Tôi lặng lẽ nghiêng mình trước tượng Gioanna, trong khoảnh khắc thoáng qua, lại liên tưởng tới lần mình đã đứng lặng như thế trước mộ của liệt sĩ Võ Thị Sáu ở nghĩa trang Hàng Dương - Côn Đảo. Có một sự liên hệ trái chiều xao xuyến trong lòng, người nữ anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam bị con cháu của người nữ anh hùng giải phóng dân tộc Pháp sát hại, chẳng biết trên thiên đường, hai vị liệt nữ sẽ nói gì với nhau về những éo le lịch sử như thế này?

Trong những ngày ở Rouen, tôi được mời về ăn nghỉ tại nhà vợ chồng anh Giảng chị Yến. Chị Yến là chị ruột anh bạn tôi ở Hà Nội. Anh Giảng hơn chị Yến 25 tuổi. Trước năm 1954 anh đi lính cho Pháp, đóng quân ở Sơn Tây, lính lái xe. Sau giải phóng 54 vào Nam rồi sang Pháp, tiếp tục nghề lái xe vận tải cho tới lúc nghỉ hưu. Từ khi vợ chết, anh hay về Việt Nam thăm quê. Gặp chị Yến cùng làng, đang làm ăn ở Hà Nội, chưa lập gia đình, duyên số gắn bó nên vợ nên chồng. Chị Yến theo chồng sang cư trú ở Darnétal ngoại thành Rouen. 

Anh Giảng nói với tôi, ở đây xa xôi cách trở ít người Việt, thành thử khi có bạn bè trong nước sang Paris, biết tin thế nào cũng phải kéo về đây cho bằng được. Chỗ ở thì thoải mái, ăn thì không phải lo, thêm bát thêm đũa thôi mà! Tôi thấy anh xa quê hơn 50 năm mà tiếng Việt vẫn không một chút pha trộn, những câu so sánh, ví von vẫn còn nguyên vẻ đồng bằng Bắc Bộ, cảm động thật! Biết tôi thích du lịch nên anh chị đã chuẩn bị một chuyến đi picnic xa nhà. Xe nhà anh chị thay nhau lái, bữa ăn nguội chuẩn bị đơn giản bánh mì, đồ hộp, hoa quả và nước khoáng mang theo. Nơi đến là bãi biển Arromanches cách Rouen khoảng 150km về phía Tây.

Arromanches là một thị trấn nhỏ nằm trên biển Manche. Trong đại chiến thế giới thứ Hai, khi Phát xít Đức xâm chiếm nước Pháp, chúng đã cho xây dựng ở vùng bờ biển này một phòng tuyến bảo vệ kiên cố bậc nhất hồi đó, nhằm ngăn chặn quân đồng minh tấn công lên đất Pháp từ hướng Đại Tây Dương. Tháng 6/1944, quân đội đồng minh mà trong đó liên quân Anh, Pháp, Mỹ là chủ yếu đã đổ bộ thành công lên Arromanches, đánh bại quân Đức ở phòng tuyến bất khả xâm phạm này. Cuộc đổ bộ thành công lên Arromanches là một mốc lịch sử quan trọng trong thế chiến thứ hai, nó đánh dấu giai đoạn suy yếu trước khi không còn khả năng chiến đấu của phát xít Đức ở mặt trận phía Tây.

Trong khu bảo tàng ngoài trời, rộng mênh mông trên bờ biển, tôi đứng trên một nóc hầm boong-ke bê tông kiên cố của mồ ma quân phát xít Đức nhìn ra Vịnh Doville. Nước biển Manche xanh thăm thẳm. Hàng chục con tầu đổ bộ bằng thép của quân đồng minh hơn nửa thế kỷ trước vẫn nằm rải rác trong lòng vịnh, cái dọc, cái ngang, cái mấp mé ngoài khơi xa, cái gối mạn trên bờ cát. Từng đợt sóng nối tiếp nhau từ ngoài khơi chạy ngang vào bờ vịnh, cuộn bọt trắng quanh những thân tầu bất động. Trong giây lát tĩnh lặng nghĩ về cuộc chiến năm xưa, tôi bỗng tưởng tượng đoàn tầu nằm đó thấp thoáng như đoàn chiến mã, bọt nước tung cao như bờm bay trước gió. Biển trầm hùng giọng hát vang xa, ngợi ca chiến công bất diệt của nhân loại tiến bộ, trong trận đánh yểm huyệt góp phần tiêu diệt con quái vật phát xít, nẩy nòi nghiệp chướng của xã hội loài người.

Cứ ven bờ biển, chúng tôi lại đi tiếp về phía Tây chừng ba mươi cây số là đến bãi biển Omaha. Nơi đây được xây dựng một nghĩa trang của quân đội Mỹ, là nơi yên nghỉ của trên một vạn sĩ quan và binh sĩ Mỹ bị chết trong các trận chiến với quân Đức ở vùng Normandie được qui tập về đây. 

Trên thảm cỏ xanh, hơn một vạn cây thánh giá bằng đá trắng được trồng thẳng tắp theo lối hàng quân. Mỗi cây thập tự là một người lính, trên đó có khắc tên tuổi, cấp bậc, số quân tịch của người đã khuất. Ở hàng trên của rừng thánh giá, chúng tôi phát hiện thấy một cây có dòng chữ mạ vàng khác thường, mới hay đây là mộ của thiếu tướng Roosevelt, con trai của Tổng thống Mỹ đương thời Roosevelt. Ông là một Tổng thống đặc biệt của nước Mỹ, bị liệt hai chân, luôn phải ngồi xe đẩy, mà làm Tổng thống qua 4 nhiệm kỳ, vượt ra cả qui định thời gian của luật pháp.

Nghĩ về cái chết của con trai ông, tôi bỗng nhớ tới câu chuyện con trai Stalin, một đại uý hồng quân Liên Xô bị quân Đức bắt giam trong thời chiến tranh vệ quốc. Khi quân đội Liên Xô bắt sống được một thống chế của quân phát xít, chúng điều đình với Stalin đề nghị trao đổi đại uý con trai Stalin lấy viên thống chế. Biết rằng nếu không chấp thuận thì con trai mình sẽ bị thiêu sống trong lò, nhưng ông vẫn nén nỗi đau riêng mà bình thản trả lời: "Tôi không bao giờ đánh đổi một nguyên soái để lấy một đại uý cả".

Hai cái chết của hai người lính là con trai của hai vị Tổng thống trong liên minh "tứ hùng" - Nga - Mỹ - Anh - Pháp thời thế chiến thứ hai, suy ra cũng đẹp đẽ tự nhiên như bao nhiêu cái chết của những đồng đội có tên và không tên của họ. Nhưng điều khác biệt mang màu sắc sử thi ở đây lại ở chỗ, hai người lính đó là con trai của hai người đàn ông có quyền lực cao nhất thế giới lúc bấy giờ, họ có thể biến con trai họ thành những người anh hùng yêu nước trong các cơ quan tổng hành dinh nơi hậu tuyến, cũng huân chương lấp lánh và bản chiến công ngời ngời, với độ tuổi sung mãn và một sức khoẻ cường tráng, con trai họ sẽ theo bước chân dòng dõi truyền thống mà bước lên bậc thang uy quyền thời hậu chiến.

Họ có thể mãn nguyện tự hào mà nói rằng: "Hổ phụ sinh hổ tử" như bao bậc đế vương xưa nay vẫn thường tự hào mãn nguyện. Nhưng Stalin và Roosevelt đã không làm như vậy. Con trai họ đã hi sinh trên tuyến đầu mưa bom bão đạn. Tấm gương quên mình của những người cha và những người con như thế, thật đáng để cho hậu thế soi chung.

Cuộc đổ bộ thành công lên Arromanches và cục diện chiến tranh thay đổi ở cả hai mặt trận Đông và Tây đã tạo cơ hội để nước Pháp được giải phóng khỏi ách xâm lược của Phát xít Đức. Theo chân quân đồng minh, những người kháng chiến Pháp ở hải ngoại dưới sự lãnh đạo của tướng Charles de Gaulles đã trở về quê hương, và tướng De Gaulles  - Chủ tịch uỷ ban kháng chiến hải ngoại đã bước qua chiến công của những người kháng chiến trong nước, trở thành Tổng thống nước Pháp cộng hoà sau chiến tranh.

Lịch sử thế giới quả là có những khúc tình cờ kỳ ngộ, ví như Việt Nam và Pháp là hai quốc gia Đông - Tây ở hai chân trời vạn dặm, thế mà trong một khúc quanh của dòng chảy, lịch sử của hai nước đã có một trang viết vắt ngang, ấy là trang sử xâm lược và trang sử chống xâm lược dầy gần một thế kỷ của hai quốc gia. Lại éo le thay, một trong những trang sử bi hùng đó, tướng De Gaulles đã xuất hiện như một con người có hai khuôn mặt khác nhau, giống như hai mặt của một tấm huân chương vậy.

Nước Pháp được giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Charles de Gaulles, đất nước bước vào thời kỳ tái thiết hậu chiến, và công lao đóng góp của viên tướng này cho sự vững mạnh của nền cộng hoà thứ V đã được người Pháp ghi nhận. Tên của ông được đặt cho những công trình vĩ đại và tiêu biểu của nước Pháp như sân bay Charles de Gaulles, quảng trường Charles de Gaulles - nơi có Khải Hoàn Môn Ngôi sao nổi tiếng ở trung tâm Paris, hàng không mẫu hạm Charles de Gaulles… 

Cũng chính trong thời kỳ này, ở vùng Đông Nam Á xa xôi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà non trẻ đã ra đời từ kết quả của một cuộc vận động cách mạng tài tình và cuộc khởi nghĩa toàn quốc do lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo. Nước Việt Nam trước đó không lâu vẫn là một xứ thuộc địa của nước Pháp thực dân. Nhưng thực dân chỉ là cách gọi Nôm, chứ tên chữ của nước Pháp vẫn cứ là Cộng hoà Pháp quốc như đã từng được gọi từ cách mạng cộng hoà 1789. Theo cái logic hình thức đó thì nước Cộng hoà Pháp hẳn sẽ phải hân hoan ủng hộ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.

Tiếc thay, lịch sử lại không phát triển theo chiều thuận, tướng De Gaulles, người hùng của nước Pháp - một đất nước vừa thoát ra từ những tháng năm nô lệ đầy tủi nhục của bọn phát xít - con người đó lại xuất hiện ở thời điểm này trong một dáng hình khác hẳn, khi quân đội Pháp núp sau quân Anh và quân Tưởng trở lại xâm chiếm Việt Nam. Lãnh tụ Hồ Chí Minh, con người kiệt xuất của nhân loại tiến bộ, trong thời khắc bi thương của tổ quốc và dân tộc mình, người đã phải gạt nước mắt để ký Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946, tạm thời thừa nhận sự có mặt của quân đội Pháp ở Việt Nam để đuổi 30 vạn quân Tưởng ra khỏi bờ cõi. Rồi Người đã giơ bàn tay thân thiện về phía tướng De Gaulles, chấp nhận tình thế nước Việt Nam độc lập nằm trong khối Liên hiệp Pháp, những mong để cho máu của nhân dân hai nước Việt - Pháp không còn phải tiếp tục đổ xuống một cách vô ích.

Nhưng tướng De Gaulles đã chối từ hoà bình. Nhân dân Việt Nam phải bước vào một cuộc kháng chiến trường kỳ và thần thánh. Thủ đô Hà Nội đã biến thành chiến luỹ ngăn bước quân giặc. Trận Điện Biên Phủ đã kết thúc mọi tham vọng của những thế lực hiếu chiến, muốn mượn màu sắc vinh quang của cách mạng Cộng hoà để dễ bề nô dịch các dân tộc nhỏ yếu.

Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, Tổng thống Pháp De Gaulles, nhận ra những sai lầm trong quá khứ, đã gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh một bức thư với lời lẽ chân thành: "… Một sự thông cảm mới giữa người Việt và người Pháp sau chiến tranh có thể ngăn cản được những sự kiện đã tàn phá đất nước Ngài…"

                                                         *

Tôi đã có dịp đi trên những con đường ngang dọc xứ Normandie, những nẻo đường mà chắc hẳn sáu chục năm về trước, tướng De Gaulles đã từng đi khi trở về quê hương theo bước chân quân đội đồng minh, sau những năm dài kháng chiến hải ngoại. Nghĩ về một thoáng đời người của viên tướng nổi tiếng này, ta lại có dịp suy ngẫm về mối tương quan giữa vai trò của quần chúng và cá nhân trong tiến trình phát triển lịch sử. Dẫu vẫn biết quần chúng là động lực quyết định sự phát triển của xã hội loài người, thế nhưng trong không ít trường hợp ở những thời điểm cụ thể, có những con người cụ thể đã làm được cái việc uốn nắm dòng chẩy của lịch sử một quốc gia, thậm chí của một phần thế giới theo chiều hướng tiến lên hay quay lại. Lịch sử Đông Tây Kim cổ đã không thiếu những ví dụ minh họa cho điều này.

Ví như nước Pháp giai đoạn tướng De Gaulles làm Tổng thống. Nhân dân Pháp với truyền thống văn minh và nhân hậu đã đồng lòng phản đối cuộc chiến tranh bẩn thỉu ở Đông Dương. Những tên tuổi như Henri Martin, Raymonde Dien, Madeleine Riffaud… là những tiêu biểu cho nền văn minh Pháp trên trận tuyến chống chiến tranh. Thế nhưng cuộc chiến tranh phi nghĩa do tướng De Gaulles châm ngòi đã phải đi đến điểm nút cuối cùng. Và sự sụp đổ hoàn toàn của cả hệ thống thực dân kiểu cũ trên phạm vi toàn thế giới sau Điện Biên Phủ, sau Việt Nam đã như một định mệnh. Nước Pháp trở nên kiệt quệ sau cuộc chiến tranh này, và vị thế của nước Pháp cũng bị xuống cấp nhiều trong tiềm thức nhân dân thế giới.

Tướng De Gaulles từ lâu đã là người thiên cổ. Thế giới sau Việt Nam đã có nhiều thay đổi sâu sắc. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã được nhân loại tôn vinh là Anh hùng giải phóng dân tộc - Danh nhân văn hoá thế giới. Thủ đô Hà Nội đã được thế giới ngưỡng mộ tôn vinh là Thành phố vì hoà bình. Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay đã là một quốc gia độc lập thống nhất, có một vị thế xứng đáng trên thế giới. Hai quốc gia Việt Nam và Pháp, mặc dù có những khúc vòng vo lịch sử, nhưng ngày nay đã trở thành hai quốc gia bình đẳng và thân thiện. Đặc biệt là quan hệ của nhân dân hai nước, họ luôn dành cho nhau những tình cảm ấm áp và cảm thông như những người anh em thân thiết. Và có lẽ đấy mới chính là cái ý nghĩa nhân bản đích thực được toả sáng của nền văn hiến Việt Nam và nền văn minh Pháp, mà trong dòng chẩy của nền văn minh nhân loại, không một thế lực nào có thể phá vỡ.


 

Nguyễn Đắc Như

Tin liên quan

Tin mới nhất

Không phải USD, đây mới là

Không phải USD, đây mới là "nơi trú ẩn an toàn" dòng tiền đổ xô tìm đến giữa căng thẳng Trung Đông

Sau cuộc tấn công bất ngờ của Israel vào Iran, thị trường tài chính toàn cầu có phản ứng mạnh. Trong khi đồng USD và trái phiếu Mỹ phản ứng khá mờ nhạt, giá vàng lại tăng vọt, cho thấy vai trò ngày càng nổi bật của kim loại quý này như một tài sản trú ẩn trong khủng hoảng. Chuyên gia Mohamed El-Erian cảnh báo nhà đầu tư nên thay đổi cách nhìn về các tài sản an toàn truyền thống.

Bất ngờ với dự báo nhu cầu máy bay trong 20 năm tới: Loại máy bay nào sẽ được ưa chuộng nhất?

Bất ngờ với dự báo nhu cầu máy bay trong 20 năm tới: Loại máy bay nào sẽ được ưa chuộng nhất?

Dù thị trường hàng không toàn cầu vẫn đang chịu nhiều tác động từ căng thẳng địa chính trị và các hàng rào thương mại, hãng chế tạo máy bay Airbus vẫn lạc quan nâng dự báo nhu cầu máy bay thương mại trong 20 năm tới lên hơn 43.000 chiếc. Đây là tín hiệu cho thấy kỳ vọng phục hồi mạnh mẽ của ngành hàng không toàn cầu trong dài hạn.