Chùm thơ về thương binh liệt sĩ
Thời báo Văn học Nghệ thuật Việt Nam trân trọng giới thiệu tới bạn đọc chùm thơ về thương binh liệt sĩ nhân kỷ niệm 75 năm Ngày Thương binh Liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2022).
KHÓC CHỮ (1)
Nguyễn Thị Mai
Không phải chữ hồi đi học
Run run những nét dại khờ
Không phải chữ trong lá thư
Viết cho người yêu thời trẻ
Mà là chữ trong chiếc lọ
Chôn cùng đồng đội hy sinh
Một lần đi tìm liệt sĩ
Anh gặp lại chữ của mình
Còn nguyên những dòng nắn nót
Tự tay anh viết rõ ràng
Tên tuổi, quê hương, đơn vị
Hy sinh vào ngày, tháng, năm…
Chữ đã nằm cùng đồng đội
Năm mươi năm dưới đất sâu
Thay anh làm nhân chứng sống
Đợi người thương xót tìm nhau
Anh nấc nghẹn trong nước mắt
Khóc chữ của mình năm xưa
Ai hay cỏn con chiếc lọ
Làm bia giữ bạn đến giờ
Minh họa
THƯƠNG BINH NGOÀI CHÍNH SÁCH (2)
Nguyễn Thị Mai
Rõ ràng sẹo đạn đầy thân
Viên bi chứng tích trong chân vẫn còn
Đã từng bao trận hứng bom
Tưởng nằm lại Cánh Đồng Chum không về
Ra đi giữ trọn lời thề
Hồ sơ đời lính ngày về lại rơi
Để rồi tập tễnh muôn nơi
Xin người chứng nhận, xin lời xác minh
Vết thương đủ lý, đủ tình
Mà không chứng nổi cho mình nỗi đau
Giờ hơn bốn chục năm sau
Chờ mong, ngóng đợi… quá lâu thành thường
Mỗi lần giời đất ẩm ương
Viên bi lại nhắc mình thương lấy mình
Mỗi năm, tháng Bảy nghĩa tình
Người như cây khuất, lặng thinh rừng già
Lạt Thuồng, đồng đội đã xa
Cánh Đồng Chum biết… nhưng mà ai tin?
Cánh Đồng Chum (Nguồn: internet)
KHÓI TRẦM NGƯỢC GIÓ
Nguyễn Đức Bình
Thắp hương trên mộ cánh tay
Ta về tự viếng thân này của ta .
Biệt nhau
Tay nhỉ ? Đã xa !
Năm mươi năm trước đã là của nhau .
Cõi người ngấm hết nỗi đau
Đứt lìa…
tay phải vùi sâu đất rừng.
Trường Sơn đạn nổ bom rung
“Pháo đài bay” đã ai từng nếm qua.
Nỗi này ta chịu riêng ta
thiếu tay lệch mãi
lệch ba bốn đời.
Khói trầm ngược gió chơi vơi
Gửi mồ liệt sỹ chưa nơi yên nằm
Bảng vàng Danh dự xa xăm
“Danh” đâu đã thấy
“Dự”, trăm nỗi người.
Mai này cải táng thân tôi
Xương tàn một nắm lẻ đôi tay gầy !
"Khói trầm ngược gió" (minh họa)
NGÀY VỀ
Nguyễn Đức Bình
Bảng vàng bia đá cũng mòn
Huân chương rồi bạc mãi còn nỗi đau
Cỏ xanh xanh mướt một màu
Đau oằn chín khúc vò nhàu lòng son
Trường Sơn nắng lửa mưa bom
Vết thương là của hồi môn chiến trường
Ngày về về lại cố hương
Nửa con mắt trái dò đường đổi thay
Gập ghềnh chạm vạt cỏ may
Vấn vương níu chặt găm đầy bước chân
Gió làng lạc giọng người thân
Nghĩa trang xóm đã bao lần khói bay
Ai người cắt cỏ nơi đây
Nghiêng vành nón trắng khóc ngày sang sông
Nỡ ôm nước mắt theo chồng
Gửi dòng lệ đắng người không còn về
Sông nghèo vỗ vẹt chân đê
Tấm bia mộ mẹ ! đây quê hương mình !
TÍM ĐỢI
Nguyễn Quốc Dũng
Không di ảnh không mộ phần yên nghỉ
Lẫn vào cỏ. Thành mây phiêu lãng cuối trời.
Mẹ cũng không còn để mong nhìn con lần cuối
Riêng chị vẫn chờ chàng trai tuổi hai mươi.
Trăng theo tháng hết tròn rồi lại khuyết
Đám trẻ theo mùa gắng gỏi lớn lên
Bao cô gái theo chồng ríu rít vui như tết
Mình chị với sao trời thức mỗi đêm đêm.
Ngày nối ngày âm thầm nuôi hy vọng
Mấy chục xuân rồi dằng dặc nỗi xa
Chị cứ đợi! Nghĩa là anh vẫn sống
Trong mọi người. Cùng chị. Cả trong ta.
Khi biết đợi lẽ đời còn biết đẹp...
Sông núi linh thiêng hồn cốt bao người.
Ơi đất nước mấy ngàn năm giặc giã
Xin cúi nghiêng mình thắp nén hương "tươi."
NGỦ ĐI ĐỒNG ĐỘI ƠI!
Nguyễn Quốc Dũng
Chiến tranh tắt đã lâu rồi !
Anh còn đâu đó? Khoảng trời xa xăm.
Tôi giờ tóc bạc tháng năm
Nổi chìm giữa chốn bụi trần hành hương
Anh đi trong cõi vô thường
Những vầng mây khói ngàn phương vỗ về
Từng hàng mộ góp thành quê
Bao nhiêu bia trắng lời thề không tên
Chiều xanh... xanh thẳm... lặng yên
Nắng chan chan nắng cay lên mắt nhòa
Trời quê ta đất quê ta
Các anh nằm với bao la đất trời
Ngủ đi anh... đồng đội ơi!
Tôi tan thành gió ru người trăm năm.
ANH MÃI LÀ ANH GIẢI PHÓNG QUÂN
Thảo Trang
Chiến sĩ giải phóng quân (minh họa, nguồn: Báo Nghệ An)
Anh nằm đó tấm bia mộ vô danh
Mấy chục năm rồi không tìm ra tên họ
Cha mẹ sinh ra phải đâu là không có
Kẻ thù nào đã cướp mất tên anh
Khi tổ quốc cần anh dâng hiến tuổi xanh
Không chút đắn đo không lời từ biệt
Đứng trước quân thù lòng đầy nhiệt huyết
Gìn giữ nước nhà dù thịt mất xương tan
Hơn bốn mươi năm đất nước bình an
Anh nằm lại nơi chiến trường nắng gió
Ngan ngát bên anh tỏa hương hoa cỏ
Sóng biển rì rào ru giấc ngàn năm
Đã tắt lâu rồi ngọn lửa chiến tranh
Nhưng còn mãi một nỗi đau da diết
Tổ quốc khắc ghi những người con bất diệt
Anh ra đi tên để lại cho đời
Sẽ mãi là
Anh giải phóng quân ơi
CÒN MÃI TÌNH YÊU
Thảo Trang
Cưới nhau chưa quen hơi lạ
Rồi anh vội vã lên đường
Để lại người vợ yêu thương
Với bao nỗi niềm mong nhớ
Chiến trường bom rơi đạn nổ
Nơi anh biền biệt tháng ngày
Chị thèm hơi ấm bàn tay
Những đêm đông về lạnh giá
Thời gian trôi đi hối hả
Chiến tranh đã kết thúc rồi
Ngày về nước mắt lại rơi
Thương anh chẳng còn nguyên vẹn
Nỗi đau tháng ngày dồn nén
Lặng thầm chị giấu trong tim
Cuộc đời đâu được bình yên
Khó khăn nối dài chồng chất
Chỉ có tình yêu không mất
Chị giành bù đắp cho anh
Để đời thêm những mầm xanh
Cho tình thắm tươi hạnh phúc!
KHE SANH - ĐƯỜNG 9 – NAM LÀO
Nguyễn Hoàng Yến
Đường 9 - Nam Lào (Ảnh: TTXVN)
Đường 9 – Nam Lào em ơi có biết không
Có một phần thịt xương anh ở đó
Rừng Quảng Trị xác xơ bom cháy cỏ
Nắng đỏ mắt người
Máu đỏ đồi tranh
Cả trung đoàn – đồng đội của anh
Hứng hỏa lực Dốc Miếu, Cồn Tiên, Khe Sanh nhả đạn
Súng quét ngang
Trực thăng quét bạt
Ngã xuống rồi vẫn hát khúc quân ca
Mảnh cối trực thăng
Ôi trời đất vỡ òa
Đau đớn
Xót xa
Không kêu la sợ hãi
Rồi hòa bình
Chiến tranh xa… xa ngái
Chưa bao giờ anh gặp lại các em
Cô dân công hỏa tuyến vượt màn đêm
Băng lửa đạn cho anh thêm mạng sống
Muốn tìm em giữa rừng xanh gió lộng
Chiến địa mênh mông Quảng Trị nóng khô người
Em đâu rồi những cô gái xinh tươi
Có được về quê nở nụ cười hạnh phúc
Hay nằm đó giữa Trường Sơn bao ngày nắng rực
Dang dở thanh xuân
Ký ức đốt tê lòng
Tháng bảy về em ơi có biết không
Nén tâm nhang giữa mênh mông hương khói
Nghĩa trang Khe Sanh đồng đội đâu mà hỏi
Chỉ có mộ bia… vọng tiếng nói ân tình
Gió thì thầm khúc hát chốn uy linh
Kể câu chuyện nhân sinh nơi sống thác
Đêm Trường Sơn ánh trăng khuy bàng bạc
Những đóa hoa lòng xào xạc nhớ quê hương.
24/4/22
N.H.Y
Kính mến viết tặng chú Phạm Hoàn, thương binh trong chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, tại cao điểm 1001.
(1) - Cựu chiến binh Nguyễn Đình Kiềm trợ lý chính trị Sư đoàn 312, đã tham gia mặt trận Quảng Trị năm xưa, từng xin nhận trách nhiệm viết thông tin về các đồng đội hy sinh để đặt trong lọ thủy tinh nhỏ chôn cùng họ sau các trận đánh ác liệt. Năm 2017, trong chiến dịch đi tìm hài cốt liệt sĩ, anh đã tìm được nhiều đồng đội với chiếc lọ thủy tinh trong đó còn nguyên mẩu giấy do tay anh viết rất cẩn thận và nắn nót. (2) - Từ bài thơ này, các cơ quan chức năng đã vào cuộc và làm được chính sách thương binh sau 40 năm cho ông Nguyễn Văn Mừng- thôn Bãi Cả- xã Bình Sơn- huyện Lục Nam- Tỉnh Bắc Giang, nguyên chiến sĩ Trung đoàn 866 - Quân tình nguyện Việt Nam giúp Lào, bị thương năm 1971 tại Xiêng Khoảng. |
Bình luận