Vài ký ức về Xuân Hoàng
Những năm đầu của thập niên 1960 qua anh Trần Hữu Thung tôi gặp nhà thơ Xuân Hoàng, lúc ấy anh là một Trưởng phòng của Nhà xuất bản Văn học. Anh thích tôi khi biết tôi quê ở Phú Yên: “Hay quá, mình quê gốc là ở Tuy Phước, Bình Định”. Tôi kể cho anh nghe về những ngày Tỉnh ủy Phú Yên đóng trên đất Tuy Phước vì sau năm 1954 Phú Yên giao chính quyền cho địch theo Hiệp định Giơ-ne-vơ và những ngày tôi làm liên lạc Tỉnh ủy, lặn lội vùng Tuy Phước. Chúng tôi trở nên thân nhau.
Anh Trần Hữu Thung hay rủ tôi và anh Xuân Hoàng đi thăm đến chùa và trò chuyện. Một hôm chúng tôi rủ nhau đi Bắc Ninh xem quan họ. Cả ba, mỗi người một chiếc xe đạp thong dong vượt cầu Long Biên cổ kính để về dự hội Lim, nghe hát dân ca quan họ rồi cùng nhau đi thăm Đình Bảng lịch sử. Cuối chiều, ba chúng tôi dừng bên bờ sông Đuống ăn bữa cơm quê đạm bạc. Chủ quán có món cá rô chiên giòn để làm mồi cho rượu “quốc lủi”. Trần Hữu Thung thích quá, anh bảo:- Lâu lắm, tớ mới gặp lại món này, ở Diễn Châu quê tớ thứ ni là món ruột.- Ở Quảng Bình cũng rứa - Xuân Hoàng hưởng ứng - Đồng Hới của tôi đi ra biển thì có cá biển, vào phía Tây là cá đồng, tụi tôi còn đi bắt được cả cá rô, cá chạch.
Ngày đó Xuân Hoàng vừa in trường ca Du kích sông Loan được nhiều người yêu thích. Rượu vào lời ra, Xuân Hoàng đọc thơ tình. Bình thường thơ của anh rất mộc mạc, sát thực với đời, với sự việc, nhưng hễ bình thơ là anh lại rất nhẹ nhàng sâu sắc và rất tình. Đúng là văn là người. Xuân Hoàng không cao lắm nhưng vóc dáng đậm đà, thanh tao, đôi kính trắng càng tôn vẻ tao nhã và nhẹ nhàng của con người anh. Xuân Hoàng luôn lịch lãm với bạn bè.
*
Năm 1963, anh Xuân Hoàng có quyết định về Quảng Bình để xây dựng Hội Văn học nghệ thuật. Tôi mới nán lại tham gia đoàn nhà văn do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức và tôi được phân công tổ chức đưa đoàn đi Hải Ninh, Cô Tô. Anh rất thích thú:
- Mình yêu biển lắm. Biển như một phần của đời mình.
Chúng tôi đi với nhau, đoàn lần đó khá đông những nhà văn nổi tiếng như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Vân Đài, Anh Thơ… Riêng “họ” nhà Xuân có đến 4 Xuân: Xuân Diệu, Xuân Hoàng, Xuân Tửu và Xuân Hạc (Phan Xuân Hạc). Dưới trăng rằm sáng tỏ của trung thu, con tàu đưa chúng tôi qua Bái Tử Long, Hạ Long kiểu diễm để rồi cập bến Móng Cái - Trà Cổ. Hôm sau lại lên tàu vượt trùng khơi ra huyện đảo Cô Tô. Suốt dọc đường Xuân Hoàng thỉnh thoảng lại ra khoang trước, anh quan sát, ghi chép. Anh viết rất nhanh. Qua Bái Tử Long, Hạ Long anh liền có thơ:
“Tàu tôi qua Bái Tử Long
Thương anh chiến sĩ biên phòng giữa khơi”
Và:
“Hạ Long ơi! Biết nói sao!
Thuốc lá, biết mấy người chào Hạ Long”
Hoặc:
“Rồng về đây tự thuở nào?
Bài thơ tuyệt tác
Xin chào non sông!”
Đến Cô Tô anh ứng khẩu:
“Nghe đồn mãi tiếng Cô Tô
Hân hoan rỡ mặt bây giờ là đây
Nẻo khơi dầu cách ngàn mây
Nước non đâu chẳng sum vầy tình dân”
Những ngày ở đảo sau những giờ sinh hoạt chung, Xuân Hoàng rủ tôi ra biển, anh lân la nói chuyện với mọi người, kể cả các em nhỏ đang bắt nghêu. Xuân Hoàng cho biết anh lớn lên ở Đồng Hới bên dòng Nhật Lệ và bên kia sóng là biển, anh thường ra biển. Anh nói: “Biển Cô Tô xanh ngắt đứng lá giữa đảo khơi, biển Quảng Bình và biển miền Trung cũng xanh trong và rất giàu hải sản”. Nhưng, anh nhìn tôi, như để hỏi tôi: “Tại sao dân miền biển vẫn nghèo?” Anh nói: mình viết: “Quê em ngọc điệp bào ngư sẵn!/ Em lớn trên vàng em biết không”.

Nhà thơ Xuân Hoàng (1925 - 2004).
Thế mà em vẫn nghèo? Sự suy tư đó cứ theo anh nhiều năm tháng. Cuối những ngày ở đảo anh chép tặng tôi chùm thơ anh và viết như một nhật ký hành trình đầy cảm xúc, mỗi khúc có một cái tên: Qua Hạ Long, thăm Móng Cái, chiều Trà Cổ, đường ra Cô Tô, chào Cô Tô, ở đảo, dạo biển, biển động, biển lặng, bắt còng, giã từ Cô Tô, qua Bái Tử Long, đêm, qua Hạ Long. Gần 15 đoản khúc bốn câu như vậy, anh chép rất cẩn thận tặng tôi. Có thể nói anh là nhà thơ có chữ viết đẹp, chỉn chu và sắc nét.
Đêm rằm giữa đảo trăng sáng vằng vặc, biển sau cơn bão im và phẳng lặng như chiếc gương khổng lồ để trăng soi bóng. Xuân Hoàng tấm tắc khen biển đẹp, trăng sáng và anh đọc tôi nghe một đoạn bài thơ anh mới viết đêm qua:
“Không thể gởi về em chuỗi ngọc
Gởi về em đấy chuỗi thơ trong
Đọc thơ hãy tưởng trai đang nở
Trên đất Cô Tô ngọc sáng hồng”
Và anh chép tặng tôi bài thơ đó, bài thơ có tên Quà Cô Tô anh ghi:
“Tặng B”, tôi hỏi B là ai? Anh tủm tỉm cười không trả lời.
- Chắc là người tình?
- Anh lắc đầu: “Biển là người tình muôn thuở của tớ”
*
Cuối năm 1973, tôi vào công tác khu Trị Thiên trở ra, ghé nghỉ ở nhà giao tế Quảng Bình. Thị xã Đồng Hới đổ nát vì bom đạn Mỹ mà tỉnh xây được khu nhà giao tế rất lịch sự. Nhà tranh, vách lá nhưng giường ga đệm trắng, mọi phục vụ rất ân cần chu đáo. Đây cũng là khu tiếp tân đón các Đại sứ và khách quốc tế vào làm việc với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Ngay sau khi dừng chân, tôi tìm đến Hội Văn nghệ Quảng Bình. Ở đây tôi gặp lại Trần Công Tấn, Trần Nhật Thu, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hồng Duệ và có cả Lê Thị Mây. Tôi gặp lại anh Xuân Hoàng ở đây. Anh chị em Quảng Bình coi Xuân Hoàng là cây đa cây đề của làng văn Quảng Bình. Anh dày công vun đắp, bồi dưỡng lực lượng viết và đưa Hội trở thành chỗ dựa, thành mảnh đất nảy mầm ra hoa kết trái cho các cây viết xứ Quảng này.
Trên xe ôtô, anh đề nghị tôi đi một vòng thị xã Đồng Hới xinh đẹp mà anh đã từng viết “Thị xã nhỏ xinh như đường ngân, nét nhạc”. Đồng Hới hôm nay đổ nát, anh nhìn dòng Nhật Lệ, nhìn nhà thờ cổ, bom Mỹ đội nát còn trơ cái tháp chuông nham nhở, anh thốt đọc bài thơ do anh viết:
“Ta biết hôm nay Đồng Hới hủy mình
Để có một ngày mai Đồng Hới đẹp
Thành phố ta xây bên bờ biển biếc
Biển miền Trung xanh ngắt một màu xanh…”
Anh yêu quê hương và luôn vững niềm tin một ngày mai tươi đẹp. Hôm đó chúng tôi dừng chân bên bờ Nhật Lệ. Anh vỗ vai tôi: “Mình và Phú chúng ta đều lớn lên bên biển, mình yêu biển lắm”. Anh khoe vừa viết xong tập thơ Biển và Bờ và nói “đây là tập thơ có nhiều bài mình yêu nhất”. Anh đọc cho tôi nghe thơ Biển và Bờ. Tôi còn nhớ những câu:
“Tình của biển là linh hồn của đất”
Và” “Biển và Bờ thành tiếng hát song đôi”
Và: “Anh yêu em như biển mở chân trời”
Đúng là tình yêu mà rộng như chân trời trên biển thì quả là vô tận, tôi khen anh dùng hình tượng hay. Anh cười: “Biển là hồn là xác của mình mà”.
Xuân Hoàng là vậy, nhẹ nhàng nhưng sâu lắng. Biển, quê hương và Tổ quốc đã là hồn, là xác của anh. Anh yêu Quảng Bình, yêu Việt Nam như biển mở chân trời.
|
Nhà thơ Xuân Hoàng (1925 - 2004), quê gốc Phước Hòa, Tuy Phước, Bình Định, sinh sống ở Quảng Bình. Nguyên Trưởng phòng Văn, Nhà xuất bản Văn học, nguyên Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Quảng Bình, nguyên Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật. |

Chử Văn Long thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhiều người chiếm lĩnh thi đàn...
Bình luận