Bài 2: Bảo Ninh với nỗi đau buồn chiến tranh và khát vọng hòa bình
“Nỗi buồn chiến tranh” là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Bảo Ninh, được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành lần thứ nhất năm 1990 và lần thứ hai năm 1991, với cái tên là “Thân phận của tình yêu”. Sau đó, tác phẩm được tái bản, lấy lại cái tên ban đầu “Nỗi buồn chiến tranh” do chính tác giả đặt. Tác phẩm đã được tặng Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, đã được dịch ra 18 thứ tiếng, xuất bản ở 22 quốc gia trên thế giới. “Nỗi buồn chiến tranh” là một cuốn tiểu thuyết có tư tưởng sâu sắc và phong cách nghệ thuật độc đáo. Một cuốn tiểu thuyết đáng gọi là kiệt tác, một trong những đỉnh cao của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
Chiến tranh kết thúc, Kiên náo nức được gặp lại Phương. “Từ đây về tới Hà Nội đầu tầu như không ngừng hân hoan thúc lên hồi còi reo vui lanh lảnh: Hạnh phúc, hạnh phúc… Và các đầu dập nối toa rầm rập nhắc lại: Hạnh phúc, hạnh phúc… Càng về gần tới Hà Nội đầu óc Kiên càng thêm choáng váng, đê mê một cơn sốt nhẹ nhàng, tim đập rộn lên bởi bao dự cảm mơ hồ, dịu ngọt và khó tin. Xúc cảm bình yên làm mắt anh mờ lệ” (tr.84). Bất ngờ Kiên gặp lại Phương sau chiến tranh: “Mười năm trời ấy, một cái hôn dài. Cái hôn bất tuyệt thấu vào tim, cái hôn mà mãi mãi mỗi người trong họ còn phải nhớ bởi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ cả hai còn được hưởng một cái gì tột đỉnh cuộc đời đến như thế nữa” (tr.85). Kiên những tưởng từ nay họ không bao giờ xa nhau nữa. Tuy nhiên, ngay lúc đó Kiên đã “cảm thấy những xung động rối ren giữa niềm hạnh phúc vô bờ lẫn cùng sự hoang mang bấn loạn từ tấm thân yêu kiều trong vòng tay của mình. Anh cắn răng lại, anh nghe dường như có bước chân rón rén nào đó và có một ai đó đang chứng kiến anh với Phương gặp gỡ nhau” (tr.86). Quả là “niềm vui ngắn chẳng tầy gang” (Truyện Kiều), Kiên đau đớn thốt lên: “Chao ôi! Như vậy đấy: Hòa bình, hạnh phúc, ánh huy hoàng của chiến thắng, ấn tượng êm dịu của ngày trở về, niềm tin đầy đắc thắng về tương lai… Tội nghiệp thằng bé! Mỗi lần nhớ lại đêm đầu tiên của cuộc đời mới sau chiến tranh lòng dạ anh đau nhói, chua xót, không thể không rên lên” (tr. 86). “Tội nghiệp thằng bé!”, lời thốt lên qua dòng hồi tưởng, tự mình nhận xét về mình của Kiên phơi ra một sự thật chua chát, tàn nhẫn. Người lính dày dạn nơi chiến trường khi trở về với đời thường té ra vẫn là thằng trẻ con, bé nhỏ, dại khờ biết bao trước con mắt của người yêu, trong con mắt của người đời. Bao năm bị chôn vùi trong chiến tranh, anh chẳng lớn khôn thêm một chút nào trước dòng đời xô bồ, đầy phức tạp đang chảy trôi không ngừng nghỉ. Anh bị gạt ra bên lề, bị bỏ rơi, bị hẫng, bị lạc lõng trước cuộc đời.
Sau chiến tranh, Kiên gặp lại Phương, nhưng tình yêu đâu còn nguyên vẹn nữa. Tình yêu của họ không những bị chiến tranh vùi dập mà còn bị bối cảnh thời hậu chiến, cái “địa ngục đời thường, địa ngục của thái bình an lạc”, đẩy họ ngày càng xa cách nhau hơn. Kiên rơi vào tình cảnh của một con người bị chấn thương tinh thần, không sao trở về với đời thường được nữa, “dường như chẳng ở trong một “kênh” với mọi người”. Phương đã trở thành một người đàn bà khác, sống buông thả trong những lạc thú tầm thường, “hư hỏng”. Mặc dù vẫn còn yêu nhau nhưng họ không thể sống bên nhau. Sự tan vỡ mối tình trong sáng của họ, xét đến cùng là do hoàn cảnh chiến tranh, là do hậu quả của chiến tranh.
Kiên và Phương dù đã chia tay, “mỗi người mỗi rìa thế giới thì trong tâm tưởng anh, Phương vẫn là toàn bộ cuộc sống tinh thần. Và nào chỉ là tinh thần. Hằng đêm, anh sẽ miệt mài mê mẩn, chìm trong cái vuốt ve vô tận của mộng mị. Ngay cả khi bên cạnh có một cô gái đang trở mình áp sát vào anh trong giấc ngủ thì nhắm mắt lại anh vẫn khắc khoải nhớ tới Phương, nhớ tấm thân đẹp đẽ trắng ngần, nhớ hương thơm ngây ngất quyến rũ của làn da, nhớ cặp môi mọng ngọt như trái chín, nhớ quầng thâm mệt mỏi quanh đôi mắt nâu những đêm nàng âm thầm bải hoải. Mọi cuộc dan díu đều không thể làm vơi nàng. Mùi da phụ nữ chín rũ chỉ làm anh khao khát một mình nàng. Tình dục vốn đã ngủ say và những nồng cháy của xác thịt tưởng đã bị dập tắt hẳn từ lâu lại như bắt lửa bừng rực lên với hình bóng nàng nhập vào anh hằng đêm giữa những giấc mơ. "Tất cả những nhân vật nữ mà anh mê say trong sáng tác của mình rút cuộc vẫn chỉ là những giấc mơ về Phương” (tr.182). Dẫu chỉ là trong mơ thôi, “nhưng chính ái lực của lòng say đắm không đổi với nàng đã duy trì cho anh ngọn lửa của tình yêu cuộc sống. Kí ức tình yêu và kí ức chiến tranh kết thành sinh lực và thành thi hứng, giúp anh thoát khỏi cái tầm thường bi đát của số phận sau chiến tranh. Nhưng đúng là chỉ hoàn toàn trong mơ, chỉ trong mơ mà thôi. Khi đã một bước rời khỏi chiêm bao thì thế là thôi hết tất cả, là lập tức lại nỗi cô đơn rã rời tan tác, tất cả lại trôi trượt ra xa; và con người anh lại phải trở về với hình hài một gã đàn ông tật nguyền dị mọ, đã luống tuổi và đã hết thời, trống vắng và đại bại” (tr. 182 - 183). Mối tình giữa Kiên và Phương “đã trở thành một cái gì vô phương cứu vãn trong đời” (tr.183). Như vậy, với nhân vật Phương, Kiên mơ rồi lại tỉnh, và khi đã tỉnh thì anh lại trở về với nỗi buồn đau tiềm tàng trong lòng mình.
Cho dù mối tình giữa Kiên và Phương là “vô phương cứu vãn trong đời” nhưng trong tâm hồn Kiên, tình yêu của anh với Phương sẽ trường tồn, bất diệt: “Còn và mãi mãi còn. Đời anh chỉ có hai tình yêu thôi. Một là mối tình của anh và Phương hồi trước chiến tranh. Và sau chiến tranh là mối tình khác, cũng giữa anh với nàng” (tr.162). Trong quan niệm của Bảo Ninh, chiến tranh có thể tàn phá tất cả nhưng không thể làm lụi tàn tình yêu. Trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã viết nên những trang tiểu thuyết hay nhất, đẹp nhất, say đắm nhất về tình yêu. Dường như, từ những cuốn tiểu thuyết tình yêu đã từng làm say đắm lòng người một thời của các nhà tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đến Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, lịch sử văn học hiện đại Việt Nam mới xuất hiện thêm một cây bút văn xuôi sở trường viết về tình yêu, viết một cách say sưa, nồng nàn, đằm thắm, sâu xa.
*
Trong tiểu thuyết của Bảo Ninh, nỗi đau buồn chiến tranh, nỗi đau buồn tình yêu được bổ sung thêm bởi nỗi đau buồn nghệ thuật; thân phận của nghệ thuật cũng chịu tình cảnh chung với thân phận của tình yêu. Nếu như chiến tranh làm tan vỡ tình yêu thì dường như cũng làm lụi tàn cả nghệ thuật. Trong một thời đại chiến tranh triền miên, ác liệt; mọi giá trị của đời sống đều bị chi phối bởi lợi ích, quyền sống tối thượng của dân tộc, cộng đồng, thì nghệ thuật cũng không thể nào khác được, cũng chịu chung số phận, cũng khó có thể tồn tại với cái lẽ sống riêng, chính đáng của mình. Ở đây, hoàn cảnh chiến tranh, bầu không khí tinh thần của thời đại cũng là môi trường tạo nên nỗi đau buồn nghệ thuật.
Để tạo dựng chủ đề nỗi đau buồn nghệ thuật, Bảo Ninh đã xây dựng các nhân vật cha Kiên - một họa sĩ tài năng nhưng lạc thời, Phương, dượng của Kiên, còn Kiên như là người chứng kiến hoặc cảm nhận nỗi đau buồn ấy qua lời kể của những nhân vật khác cùng với sự suy ngẫm, chiêm nghiệm của anh.
Tác phẩm "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Cha Kiên là một họa sĩ tài năng nhưng không hợp thời - một nghệ sĩ lạc thời. Tư tưởng và nghệ thuật của ông đối lập với khuynh hướng tư tưởng và nghệ thuật của thời đại. Những bức tranh in đậm cá tính sáng tạo độc đáo của ông thật xa lạ với thẩm mĩ của đám đông, lạc lõng với khuynh hướng nghệ thuật cơ bản của một đất nước lấy số phận của cộng đồng, của dân tộc làm thước đo cho mọi giá trị thẩm mĩ của thời đại. Qua hình tượng nhân vật cha Kiên - người họa sĩ đầy tài năng mà cả đời phải sống trong bi kịch, Bảo Ninh đã phê phán quan niệm cứng nhắc, thô thiển, khiên cưỡng về nghệ thuật; không đồng tình với quan niệm gò ép nghệ thuật vào tính giai cấp, tính đại chúng. Người họa sĩ tài năng ấy đã từng ôm giấc mộng “sẽ cho ra đời một kiệt tác!” (tr.137), nhưng thời đại đã không tạo điều kiện cho ông thực hiện được mơ ước chính đáng của mình.
Dù bị phê phán là “hạn chế về lập trường quan điểm”, “càng ngày càng xa lạ với thẩm mĩ của quần chúng nhân dân lao động” (tr.137) nhưng ông vẫn kiên quyết không chịu “hạ thấp tính vĩnh cửu xuống mà thêm chất phàm tục vào!”, phản đối việc “xác lập thành phần giai cấp cho sông núi!” (tr.137). Ông bị quy kết là “đã biến hội họa của ông thành những chân dung ma quỉ…” (tr.137).
Kiên nghe người ta xì xào rằng ông “bị phê phán và bị đánh đổ”, ông “là nhân vật bất mãn đáng ngờ, một tay khuynh hữu”, “đang trở thành lẩm cẩm và kì quặc” (tr. 136). Trong nhận thức của Kiên, “Càng về sau này, dưới mắt cha anh toàn bộ cõi đời như đang chuyển nhanh sang một thế giới khác, ngả sang màu khác. Con người trong tranh của ông rười rượi buồn, thân thể, mặt mày dài thượt, cộng với vẻ câm lặng biến thành những cái bóng…” (tr.137). Ông vừa mang bi kịch gia đình tan vỡ, vừa gánh chịu tấn bi kịch của người nghệ sĩ cô đơn mang “nỗi buồn truyền kiếp” trên hành trình sáng tạo. Ông trở nên kì quặc, một kẻ xa lạ với người đời.
Chỉ có Phương là hiểu được một phần tâm sự sâu kín và nhận ra tài năng nghệ thuật của ông. “Không biết tự bao giờ, có thể là ngay từ khi còn bé, giữa cô và cha của Kiên đã thầm lặng hình thành một thứ tình cảm khó hiểu, không hẳn ra tình cha con, bác cháu, cũng không phải là thứ tình cảm vong niên, nó mập mờ chạng vạng, như ánh chiều, vô hình mà nặng trĩu như đồng ám thị. Tính cách lập dị, vẻ mờ mịt trên khuôn mặt, những đêm dài mộng du, những lời lẽ thốt lên từ vô thức, nghĩa là tất cả những nét quái nhân không người chịu nổi của ông họa sĩ, hình như lại rất gần gũi với bản chất tâm hồn Phương từ thuở ấu thơ. Ông cũng rất thương cô bé, một tình thương trầm mặc, buồn bã và không lời. "Hai bác cháu thường ngồi cạnh nhau hàng giờ, chẳng nói một lời. Bình thường là một cô bé tươi rói, vui vẻ và táo tợn. Phương có thể ngồi lặng ngắm ông vẽ, nghe ông lầm bầm độc thoại. Cô như thể bị thu mất hồn” (tr.141 - 142).
Buổi tối hôm ông quyết định đốt những bức tranh, ông nhờ Phương nhóm lửa ở góc sân thượng và giúp ông khuân hết những bức tranh trong phòng ra. Khi ông tự tay thiêu hủy những bức tranh, Phương “thầm hiểu ý định của cha Kiên và dường như cô đã hoàn toàn đồng ý với ông rằng, "phải thế thôi, phải hủy, phải chết, không còn cách nào khác” (tr.143). “Khi lửa táp, bén vào bức tranh đầu tiên, Phương run hết cả người. Sợ cuống, hết hồn, cô không biết phải làm gì. Tuy nhiên chỉ chốc lát cô đã bị cuốn hút vào không khí trang nghiêm ma quái dập dờn tỉnh mê của buổi lễ tế thần. Kỳ ảo, huyền bí nhưng đích thực là một ác mộng. Một niềm đam mê tà giáo. Choáng ngợp tâm hồn Phương là vẻ bừng sáng tuyệt vọng của cái đẹp bùng cháy lên. Và trong sắc lửa là sắc diện của con người tử vì đạo: đau đớn, say cuồng, tột cùng hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc lộn ngược. Mãi mãi đời Phương còn bị ấn tượng của đêm đó ám ảnh” (tr.143).
Không ai ngoài bản thân nhà họa sĩ hiểu nổi ý nghĩa tự hủy diệt ấy của ông. Cũng không thể biết vì sao ông lại muốn chính Phương chứ không phải Kiên chứng kiến và chiêm ngưỡng điều đó. “Phương đã không hiểu ra. Song, về sau này, nhìn vào cuộc đời mình, cuộc đời Kiên, nhìn lại tình yêu của hai đứa, Phương thấy được tính chất tiên tri của cảnh tượng đêm ấy, một sự linh ứng, một điềm báo trước, mặc dù không thực sự là báo trước một cái gì” (tr.143). Cảnh tượng cha Kiên đốt tranh trước sự chứng kiến của của Phương - một cô gái sắc đẹp khác thường, một “Vẻ đẹp lạc thời và lạc loài” (tr.142) - là hình ảnh bi tráng mang ý nghĩa biểu tượng về tấn bi kịch không lối thoát của người nghệ sĩ đầy tài năng và lạc thời này. Mãi sau này Kiên mới biết, cha anh “đã đốt hết toàn bộ kho tàng báu vật của suốt cuộc đời không ngừng vẽ và vẽ. Đốt sạch không còn bức nào trong cái đêm ông cảm thấy thần chết giục giã” (tr.138 - 139). “Cha đã rời bỏ thế giới này, ra đi lặng lẽ trong chuyến mộng du vĩnh viễn mang theo cả những bức họa màu lá rụng… ông chỉ để lại có anh thôi trong cuộc đời này” (tr.141).
Vừa song hành, vừa có nét bổ sung cho nhân nhân vật cha Kiên - một họa sĩ tài năng - sinh bất phùng thời là Phương. Nếu cha Kiên là điển hình cho kiểu nhân vật lạc thời, một nghệ sĩ có tài mà không gặp thời thì Phương cũng tự nhận mình là “đứa con gái lạc thời và lạc loài”. Kiên “ít giống cha”. Kiên “say mê chiến tranh đến đứng ngồi không yên”, thì Phương và cha Kiên đều oán thù bạo lực. Nét tương đồng này làm cho họ gần gũi, đồng cảm. Chính Phương đã chia sẻ với Kiên: “Em gần với cha anh chứ không phải với anh. Ngọn lửa thiêu đốt những bức tranh, thiêu đốt cha và luôn cả đời em. Qua ánh lửa ấy em nhìn thấy tương lai…” (tr.149). “Nếu cha anh là người cùng thời, là anh thì em sẽ yêu cha anh chứ không phải là yêu anh” (tr.149).
Qua ngòi bút của Bảo Ninh, Phương được khắc họa như một người có năng khiếu bẩm sinh về nghệ thuật. Mẹ Phương - một giáo viên âm nhạc - có lần tâm sự với Kiên: dòng họ nội của Phương “có một thiên hướng hoàn hảo kì lạ. Bất kì phẩm chất gì cũng đạt mức hoàn hảo trọn vẹn, đến nỗi bác phải tin con gái bác là một thánh nhân, một tiên nữ. Nhưng sự hoàn mĩ này là mong manh vô cùng, vì là sự hoàn mĩ do bẩm sinh chứ không phải do trường đời... Những tâm hồn trong trắng từ thuở lọt lòng như con gái bác là để dành cho âm nhạc thượng tầng. Trượt ra khỏi cây đàn những tâm hồn như con gái bác sẽ bị trường đời vò nát. Bác biết. Mà đây là bác nói trường đời ít gai góc nhất. Nói gì đến trường đời loạn lạc mà Phương nó luôn ham muốn dấn thân vào. Khi đó cái thiên bẩm trong trắng về hoàn thiện tuyệt mĩ sẽ trở thành tai hại một cách không thể tưởng tượng được” (tr.238).
Mẹ Phương cho rằng, với Phương “chỉ một môi trường sống và một môi trường nghệ thuật duy nhất để tồn tại được trong thời buổi kinh khủng sắp tới là âm nhạc của những thiên tài [...]. Bác rất quý ba cháu, nhưng bác rất sợ khi Phương nó ham mê nghe ba cháu đến thế và nó bị quyến rũ bởi những bức tranh dễ sợ như thế của ba cháu. Và bác sợ nhất là cái mơ ước nhập thân của nó vào cuộc sống. Trông bề ngoài thì thế đấy nhưng Phương nhà bác nó chịu đựng làm sao nổi những thực cảnh của thời buổi này cơ chứ. Cháu hiểu không?” (tr.238). Mẹ Phương chỉ có một sở nguyện là hướng Phương vào “nghệ thuật cao quý của cha” nàng, ấy là “âm nhạc cổ điển và đàn piano” (tr.237). Do gen âm nhạc và nhất là do được mẹ kèm dạy từ nhỏ, Phương đàn piano rất khá, nhưng “càng lớn Phương càng biếng tập” vì cho rằng: “Dương cầm, nó quá trang trọng, quá cao sang và cồng kềnh nữa, mà chúng mình đang ở thời đại loạn, phải gọn nhẹ, sắc bén thì mới nhập cuộc được” (tr.237). Hoàn cảnh chiến tranh đã làm lệch hướng năng khiếu âm nhạc bẩm sinh của Phương. Rồi cái không khí xô bồ, bát nháo của thời hậu chiến đã làm hỏng hẳn cái năng khiếu bẩm sinh ấy.
Thời gian đầu gặp nhau sau chiến tranh, chiều lòng Phương, Kiên đã đôi lần đến nhà hát để xem những vở ca kịch mà nàng có sắm vai. “Thật khó mà tả hết nỗi cực đã phải chịu đựng trong những tối như thế. Đại để là chỉ vài phút sau khi tấm màn nhung roàng roạc rẽ đôi ra, anh không còn biết đưa mắt nhìn đi đâu vì xấu hổ, vì ngượng thay cho nàng, cho các vai diễn khác, cho biên kịch, cho đạo diễn, cho các nhạc công, cho tay họa sĩ dựng phông, cho người phụ trách hóa trang cho bản thân mình, cho khán giả (Ấy vậy mà thú thực vẫn không khổ sở bằng khi phải chứng kiến sân khấu nhạc nhẹ). Tất cả những gì anh đang phải cụp mắt xuống để khỏi phải nhìn đều là sự phô bày đến tột độ cái bất tài, cái thô thiển nhảm nhí, cái kiêu hãnh trắng trợn, cái thảm hại vô vị của nền nghệ thuật đặc trưng cho đời sống tinh thần thời hậu chiến” (tr.239). Sau khi xem những buổi diễn như thế, thương Phương, lòng Kiên se lại. Trong tâm trí Kiên vọng lên một câu hỏi đầy day dứt: “Sau khi bị sa sút vì chiến tranh một con người có thể tạo dựng lại được cơ nghiệp, có thể hồi phục lại mức sống hồi trước, nhưng những tài sản tinh thần, những giá trị tinh tế của đời sống nội tâm một khi đã bị đánh sập, bị đứt khúc ra thì ai là người có được cơ hội lần về với thuở ban đầu? ” (tr.241). Vậy là, trong quan niệm của Bảo Ninh, chiến tranh không chỉ làm tan nát tình yêu mà còn làm lụi tàn nghệ thuật, làm khô héo cả những năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh của con người.
Còn nữa

Đọc tiểu thuyết "Họ đã sống như thế" (NXB Hội Nhà văn, 2024) của nhà văn Vũ Tuyết Mây với 400 trang in, tôi có cảm...
Bình luận