Bài 3: Bảo Ninh với nỗi đau buồn chiến tranh và khát vọng hòa bình

“Nỗi buồn chiến tranh” là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Bảo Ninh, được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành lần thứ nhất năm 1990 và lần thứ hai năm 1991, với cái tên là “Thân phận của tình yêu”. Sau đó, tác phẩm được tái bản, lấy lại cái tên ban đầu “Nỗi buồn chiến tranh” do chính tác giả đặt. Tác phẩm đã được tặng Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, đã được dịch ra 18 thứ tiếng, xuất bản ở 22 quốc gia trên thế giới. “Nỗi buồn chiến tranh” là một cuốn tiểu thuyết có tư tưởng sâu sắc và phong cách nghệ thuật độc đáo. Một cuốn tiểu thuyết đáng gọi là kiệt tác, một trong những đỉnh cao của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Nhà phê bình văn học Đỗ Đức Hiểu thật tinh tế khi sớm nhận ra: “Nỗi buồn chiến tranh và “nỗi buồn tình yêu” thấm vào nhau, hòa lẫn nhau, da diết, xót xa, hủy diệt, đó là hai nhịp mạnh của quyển tiểu thuyết”. “Tình yêu, chiến tranh, viết tiểu thuyết, ba nhịp đó xen kẽ, đan chéo, gây chóng mặt, bàng hoàng, nhức nhối”. Tuy nhiên, không nên xem Nỗi buồn chiến tranh là tiểu thuyết viết về đề tài tình yêu, là “quyển tiểu thuyết hay về tình yêu”, nhan đề Thân phận của tình yêu thật phù hợp với ý nghĩa của tác phẩm”. Không thể coi tình yêu là chủ đề chính của tác phẩm. Nỗi buồn chiến tranh, như trên đã viết, trước hết và trên hết là cuốn tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh. Nỗi đau buồn chiến tranh là chủ đề chính của tác phẩm, là chủ đề nòng cốt chi phối các chủ đề khác. Với Kiên, cuộc chiến tranh mà anh đã trải qua “chẳng những mãi mãi đè nặng, mãi mãi ám ảnh mà về thực chất nó còn là nguyên nhân của mọi khúc đoạn và nông nỗi của đời anh, kể cả hạnh phúc, kể cả đau khổ, niềm vui và nỗi buồn, tình yêu và oán hờn” (tr.78). Chủ đề chiến tranh là cơ sở, nền tảng đề từ đó triển khai những chủ đề khác: nỗi đau buồn tình yêu, nỗi đau buồn nghệ thuật, những trăn trở tìm tòi và sự cô đơn trong sáng tạo nghệ thuật. 

Trong tiểu thuyết của Bảo Ninh, nỗi đau buồn chiến tranh, nỗi đau buồn tình yêu cũng là cội nguồn, là nguyên cớ sâu xa, thổi bùng lên khát vọng sáng tạo nghệ thuật của Kiên. Kí ức chiến tranh và kí ức tình yêu, nỗi buồn chiến tranh và nỗi buồn tình yêu trong quá khứ và cả trong hiện tại nữa, đan xen với nhau, tạo nên cảm hứng sáng tạo ở Kiên. Và chính nhờ mê đắm trong cảm hứng sáng tạo, Kiên đã thoát khỏi cái tầm thường, bi đát của số phận sau chiến tranh. 

Theo dòng hồi tưởng của Kiên, kỉ niệm về đồi Mơ, về mối tình vô danh đêm ven đồi năm nào trỗi dậy trên đường xa đồng thời làm tỉnh lại trong lòng anh “ý thức về một thiên mệnh đầy thôi thúc. Thôi thúc một cách tha thiết và u buồn. Đời anh rộng mở: hãy đi và hãy sống...” (tr.59). Kiên đã viết về chiến tranh trong niềm thôi thúc tha thiết, mãnh liệt ấy: “Đấy, cần phải viết về chiến tranh trong niềm thôi thúc ấy, viết sao cho xao xuyến nổi lòng dạ, xúc động nổi trái tim con người như thể viết về tình yêu, về nỗi buồn, sao cho có thể truyền được vào cuộc sống đương thời luồng điện của những cảm xúc chỉ có thể diễn đạt bằng thì quá khứ và quá khứ của quá khứ, Kiên nghĩ. Mặc dù cố nhiên chiến tranh không hề là như vậy. Chiến tranh…” (tr. 59).

Bài 3: Bảo Ninh với nỗi đau buồn chiến tranh và khát vọng hòa bình - 1

Nhà văn Bảo Ninh. Tranh của Họa sĩ Đinh Quang Tỉnh

Sứ mệnh viết của Kiên là phải nói lên được nội dung của lời trăn trối: đây là cuộc chiến tranh cuối cùng. “Với anh ấy là cuộc chiến tranh cuối cùng. Và dù sao mặc lòng sự nghiệp thiêng liêng đau khổ của người lính chống Mỹ sống mãi trong tâm hồn Kiên trước tiên là như một lời trăn trối. Kiên hiểu rất rõ rằng sứ mệnh của cuộc đời anh là đến một ngày nào đấy phải nói lên được nội dung của lời trăn trối ấy” (tr. 78). Cảm nhận được “thiên mệnh của cuộc đời mình: sống ngược trở lại, lần tìm trở lại con đường của mối tình xưa, chiến đấu lại cuộc chiến đấu […]. Kể lại, viết lại, làm sống lại những linh hồn đã mai một, những tình yêu đã phai tàn, làm bừng sáng lại những giấc mộng xưa. Đó là con đường cứu rỗi của anh. Kiên nghĩ.” (tr. 88). Kiên ý thức sâu sắc rằng, nội dung mới mẻ ấy đòi hỏi một cách viết khác, “thâm tâm luôn muốn viết về chiến tranh sao cho khác trước” (tr. 60). Qua dòng suy tư của Kiên, ta biết rằng: “Chính là từ những chuyến đi tảo mộ năm ấy, trên con đường hành hương xuyên giữa rừng rậm chằng chịt những sự tích bị lãng quên, qua hồ Cá Sấu với Hòa, qua truông Gọi Hồn với anh em trong trung đội trinh sát mà Kiên đã bắt đầu quá trình lâu dài cảm nhận lại chiến tranh dưới làn ánh sáng chậm rãi của nỗi buồn. Từng bước một, từng bước một, từng ngày, từng sự kiện được tái hiện trong lòng anh một cách trầm tĩnh và u buồn. Ánh sáng của nỗi buồn soi về quá khứ, ấy cũng là ánh sáng của thức tỉnh, ánh sáng cứu rỗi của đời anh” (tr. 228).

Viết về nỗi đau buồn chiến tranh đã trở thành niềm thôi thúc một cách tha thiết, mãnh liệt trong Kiên. Hơn một lần, trong Nỗi buồn chiến tranh vang lên cái điệp khúc: “Phải viết thôi!”. “Phải viết thôi! Kiên thường tự nhủ một cách nghiêm trang và quả quyết, một cách thôi thúc và nôn nóng như thế, như thầm hô lên một khẩu hiệu để giục lòng mình, những khi anh một mình đi trên đường phố ban đêm. Những đêm âm u buồn thảm đầu óc tối sầm tuyệt vọng, như đêm nay, như nhiều đêm. Phải viết thôi! - đời anh từ bấy lâu nay còn gì hơn là viết, mặc dù là viết khổ viết sở, như đập đầu vào đá, như là tự tay tước vụn trái tim mình, như là tự lộn trái con người mình ra. Nhưng ấy thực là tồn tại duy nhất, là phần còn lại của tâm hồn đã bao lâu rồi ngợp đi trong buồn thương và tủi nhục. Viết cho đến khi không còn được nữa, cho tới khi ngay cả phần còn lại  cũng bị nhận chìm đi thì xin thề là sẽ biết đường mà tự xử” (tr.164). “Phải viết thôi! - Viết để quên đi, viết để nhớ lại. Viết để có một cứu cánh, một niềm cứu rỗi để mà chịu đựng, để giữ lấy lòng tin, để mà còn muốn sống” (tr.165). Kiên lao vào viết tiểu thuyết, viết một cách điên cuồng.

Qua nhân vật Kiên, Bảo Ninh đã nói lên được phần nào công việc lao động đặc thù đầy gian nan, khổ hạnh của nhà văn: “Anh viết ra dường như chỉ để mà hủy […]. Gạch, xóa, gạch, xóa, và xé, xé sạch, rồi lại cặm cụi viết, nhích dần từng chữ như thể một gã i tờ đang học đánh vần. Nhưng dù sao thì Kiên cũng chưa bao giờ sẵn sàng đón nhận cái khả năng là mình không hề có chút tài năng nào, thậm chí cả năng khiếu cũng không. Anh tuyệt vọng nhưng không khi nào là hoàn toàn tuyệt vọng. Anh viết, anh chờ đợi, rồi lại viết, lại chờ đợi, nôn nóng, căng thẳng, đầy những khích động thái quá của nội tâm, sống một mình với những cảm xúc của mình, anh lao động, lao động không ngừng, và già đi trông thấy. Có lẽ chỉ nhờ niềm tin kì quái vào bản thân mà Kiên vẫn đứng vững sau chừng ấy thất bại, vẫn kiên trì nuôi giữ cái linh cảm về những thành quả sẽ tới với quá trình sáng tạo nghệ thuật của mình” (tr.52). Kiên quan niệm: “Nói chung bất kì ở đâu, bất kì lúc nào cũng có thể cảm nhận được một điều gì đấy để viết một cái gì đấy và bất kì ai đấy. Chẳng phải là như thế hay sao? Bởi vì, từ cuộc sống phức tạp ẩn đằng sau vẻ bình thường dung dị, định hình cho được một nét dù là cực nhỏ nhưng thực sự đáng ghi lại, đấy quả là một trời những khả năng sáng tạo mở về muôn hướng” (tr.63). Có thể xem những dòng suy tư nói trên của Kiên chính là quan niệm nghệ thuật của Bảo Ninh.     

Từ khi bắt tay vào viết tiểu thuyết, tâm trạng Kiên như “mấp mé bờ vực”; bên cạnh niềm hi vọng và lòng tin vào thiên chức của mình, Kiên như “luôn ngờ vực sự sáng suốt của chính mình”. Càng viết Kiên càng âm thầm nhận thấy rằng, “tuồng như không phải là anh mà là một cái gì đấy đối lập, thậm chí thù địch với anh đang viết, đang không ngừng vi phạm, không ngừng lật ngược tất cả những giáo điều cùng tất cả những tín niệm văn chương và nhân sinh sâu bền nhất của anh” (tr.53). Kiên nhận ra, dường như anh không tự làm chủ được ngòi bút của mình. Kiên “hoàn toàn không cưỡng nổi”, mỗi ngày một dấn mình thêm vào “vòng xoáy của nghịch lí ấy của bút pháp”. Cuốn tiểu thuyết của Kiên đã “buông lơi cốt truyện truyền thống, không gian và thời gian, tự ý khuấy đảo không kể gì đến tính hợp lí, bố cục bấn loạn, dòng đời các nhân vật bị phó mặc cho ngẫu hứng. Trong từng chương một, Kiên viết về chiến tranh rất tùy ý như thể cuộc chiến tranh chưa từng được biết tới, như thể đó là cuộc chiến của riêng anh” (tr.53). Nhiều tháng và nhiều năm đã trôi qua, từng đêm, từng đêm, “bản thảo của Kiên đã đầy dần lên và dẫn đến đoạn kết, song đồng thời cũng như thể mỗi ngày một thêm dang dở. Những chương sau như là điệp khúc của các chương phía trước”. Những khung cảnh và những tình tiết xuất hiện như thế nào “là bởi dòng trôi của tiểu thuyết này nó như thế, tự nó chứ không phải tự  Kiên […]. Tác phẩm tự nó cấu trúc nên thời gian của nó, tự định hướng, chọn luồng và tự chọn lấy một bến bờ […]. Mạch truyện nó thế nào thì buông theo như thế, anh như hoàn toàn cam chịu cái lô gic bí ẩn của trí nhớ và trí tưởng tượng” (tr.92).

Lối viết của nhà văn Kiên làm gợi nhớ đến “cái viết tự động” mà André phát biểu trong Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực. Gợi nhớ đến quan niệm của Khái Hưng trong tiểu thuyết Đẹp (1940) khi nói đến những cuốn “tiểu thuyết không có chuyện”, trong đó nhà văn “ném vào từng nắm việc thường xảy ra hằng ngày, và từng nắm tư tưởng lạt lẽo và đậm đà, giả dối và thành thực, y như những việc làm những lời nói ở một cửa hàng bán đồ nấu [...]. Còn chuyện, nếu có chuyện, thì tôi cho nó đi như nó đi, nghĩa là nó muốn đi thế nào mặc nó, quý hồ nó đến được chỗ kết cục”. Gợi nhớ đến bút pháp của Nam Cao trong tiểu thuyết Sống mòn, ngòi bút cứ chảy trôi theo dòng suy tư miên man của nhân vật Thứ, cứ đứt rồi lại nối. Mạch nổi ngỡ như lan man, tưởng như tùy hứng nhưng mạch chìm của nó lại rất nhất quán, tập trung, đào tận đáy, phơi ra đến tận cùng cái thảm cảnh “sống mòn”, dựng nên cả một xã hội, một thế giới “sống mòn”, chết mòn, chết mà chưa sống.

Với bút pháp hiện đại, Bảo Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh đã phá vỡ tính ổn định của cách viết tiểu thuyết truyền thống. Tiểu thuyết của ông buông lơi cốt truyện; sử dụng kĩ thuật cắt dán, phân mảnh; thời gian chủ yếu là thời gian tâm trạng, khi thì đồng hiện, lúc lại xáo trộn giữa quá khứ và hiện tại; nhân vật chìm trong suy tưởng. Cả cuốn tiểu thuyết chủ yếu được viết theo dòng chảy của hồi ức và tâm trạng của Kiên - nhân vật trung tâm của tác phẩm. Bảo Ninh đã thay đổi linh hoạt ngôi kể và điểm nhìn trần thuật, vận dụng thành công thủ pháp độc thoại nội tâm, dòng ý thức, tạo nên được dòng thác của những kí ức đầy ám ảnh, nhiều khi rối bời, bấn loạn. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đều góp phần thể hiện cái nhìn mới về chiến tranh qua những số phận, những cuộc đời chìm trong bi  kịch, đào sâu vào nỗi buồn đau vô hạn của con người.  

Qua ngòi bút của Bảo Ninh, quá trình sáng tác của Kiên thực sự là một hoạt động lao động của một cá nhân, diễn ra trong đơn độc. Những người cùng chung cư với Kiên coi anh là “hiện tượng dị biệt, khó cắt nghĩa. Một kẻ bị ma ám, người ta bảo thế, một di chứng của thời đại trước. Một con ma men, uống để sám hối, để chôn vùi những uẩn khúc, những tội lỗi hẳn là vô khối trong đời. Một kẻ được đàn bà ưa thích và cưu mang song lại là một tay á nam á nữ về phần hồn. Một tay tiểu tư sản thực thụ cuối cùng của khu phố, phản loạn và cực đoan song cực kì do dự. Đại thể là như thế, nói chung là chẳng rõ ràng gì” (tr. 278).

Không ai hiểu được Kiên. Chỉ có cô gái bị câm ở căn phòng áp mái cùng khu nhà là người cảm thông và hiểu được Kiên. Chỉ riêng với cô gái câm, Kiên mới có thể giãi bày tất cả, về cuộc chiến tranh mà anh đã nếm trải và về cuốn sách mà anh đang viết. Đỗ Đức Hiểu nhận xét: “Cô gái câm không có lai lịch, cô như một bóng ma, âm thầm, cô độc, một thế giới đóng kín, tuyệt đối im lặng. Với tiểu thuyết của Kiên, cô là “người đọc có thể”, người đọc tương lai, cô là “bản nháp” để Kiên viết lần đầu, là người duy nhất chứng kiến một tiểu thuyết đang hình thành trong bóng đêm, trong cơn say, trong điên khùng và hoảng loạn, từ vô thức, từ man rợ, tức là từ nỗi buồn tình yêu và nỗi buồn chiến tranh” (Đỗ Đức Hiểu, “Những nhịp mạnh của tiểu thuyết Thân phận của tình yêu (hay Nỗi buồn chiến tranh) của Bảo Ninh”, in trong Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học xã hội, NXB Mũi Cà Mau, 1994, tr. 281). Rồi cũng giống như cha anh, như một định mệnh, Kiên đã đốt bản thảo rồi bỏ đi. Cô gái câm đã kịp thời ngăn cản, thu gom, cất giữ bản thảo. Cuối cùng, một nhân vật xưng “tôi”, một người “thường bị hấp dẫn bởi những nhân cách lạc điệu” (tr.278), đã biên tập tiểu thuyết của Kiên.

Như vậy, Kiên không phải là người hoàn thành cuốn tiểu thuyết. Theo lời của nhân vật “tôi”, tiểu thuyết của Kiên là “một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời” (tr.279). “Từng trang, từng trường đoạn một thì có thể theo dõi được, đôi khi khá cuốn hút […]. Tuy nhiên mạch chuyện không ngừng đứt gãy. Tác phẩm từ đầu đến cuối không hề có nổi một tuyến chung, một bề mặt đại khái nào mà hoàn toàn là những khối thù hình. Tất cả đang diễn ra đột nhiên đứt gãy và bị quét sạch khỏi giữa chừng trang giấy y như thể rơi vào một kẽ nứt nào đó của thời gian tác phẩm. Ta vẫn gọi đó là sự mất bố cục, sự thiếu mạch lạc, thiếu bao quát nhiều khi chứng tỏ sự hụt hẫng của tư duy người viết, chứng tỏ cái vẻ lực bất tòng tâm của y” (tr.279).

Về thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Kiên, nhân vật “tôi” nhận xét: “Cũng là một đội trinh sát đó thôi nhưng bạn thử tưởng tượng xem, ở trang này họ là người lính thiện chiến nhất, gây chết chóc đáng sợ nhất cho đối phương, ở trang sau hỡi ôi, không thể tin được, họ lại biến thành những nhân vật rã rời u ám, ngợp ngọng nhất, yếu đuối và lờ phờ nhất, thậm chí tác giả còn biến họ thành những hồn ma, những âm binh ảo não trôi dạt trong bụi bờ, trong các góc tối cầu thang, đến với nhau trong những cơn ác mộng. Tất cả họ đã bị giết, mỗi người mỗi cách, vậy mà rồi lại thấy họ kéo lê bước chân trên hè phố, nhếch nhác sống cuộc đời mạt vận của những gã tiểu thị dân thời hậu chiến. Và rốt cuộc, đến chính họ cùng với tác giả cũng phải ngỡ ngàng, bởi không đâu họ lại trở về với cõi cực lạc của những ngày tháng xa xưa, với tuổi thơ, với cô bạn gái nhỏ, với niềm tin ngây thơ trong trắng thuở trước chiến tranh! Buồn thay, họ là những người tình tuyệt vời lại là những con người cô độc vĩnh viễn, chẳng những đã mất mát lứa đôi mà còn mất đi khả năng yêu đương, và bởi những ám ảnh mà trở nên suy đồi theo cái cách của họ” (tr.279 – 280)”.

Tác giả của cuốn tiểu thuyết ấy là ai cũng rất mơ hồ: “mặc dù xưng “tôi” nhưng đích thực y là ai trong những lính trinh sát ấy, những hồn ma, những bộ hài cốt moi từ đáy rừng lên ấy, những cậu bé con nhà bị đẩy lạc ra khỏi nguồn văn hóa, những đứa con của tự do nhưng trong đầu lại đầy những định kiến ấy? Tôi không biết. Tôi không hiểu gì cả…” (tr.280).

Như vậy, qua ngòi bút tiểu thuyết của Bảo Ninh, những sự kiện, những tình tiết, những nhân vật hiện lên qua những không gian và thời gian cứ trở đi trở lại. Và tất cả dường như đều rất đỗi mơ hồ, vừa hư vừa thực. Điều đó chứng tỏ rằng, cũng như những cây bút tiểu thuyết tài năng, Bảo Ninh là nhà văn có ý thức tự giác rất cao về bút pháp của mình. Ông đã dành một dư địa lớn cho người đọc. Bằng cách đó, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh như được xếp chồng từ nhiều văn bản, không chỉ hiện lên qua sự miêu tả, trần thuật của người kể chuyện - chủ yếu là nhân vật Kiên với tư cách là người lính trinh sát năm xưa, người đi tìm hài cốt của đồng đội, mà còn được gợi lên qua lời của nhân vật xưng “tôi” khi nhận xét, bình luận về cuốn tiểu thuyết của Kiên - “nhà văn phường của chúng ta”.

Trong Nỗi buồn chiến tranh, quan niệm của người kể chuyện chỉ là một trong những quan niệm. Người kể chuyện không nói tiếng nói cuối cùng, không dành độc quyền đưa ra những thông tin xác tín, không đóng vai trò là người đưa ra chân lí mà dành quyền lựa chọn cho người đọc. Cái tình huống nước đôi, cái tâm thế nước đôi, để ngỏ, không thật sự rành mạch, “nói chung là chẳng rõ ràng gì” (tr.278) được nhà văn khai thác triệt để, góp phần tạo nên sức hấp dẫn của thiên tiểu thuyết. Nguyên tắc đối thoại, tính chất đối thoại đã thấm sâu vào từng yếu tố, từng phương diện của tiểu thuyết Bảo Ninh. Sự thật về đời sống và con người, chân lí nghệ thuật chỉ hiện ra qua các ý thức vây quanh nó, khi người đọc đối thoại với những ý thức đó.   

Nhân vật xưng “tôi” đã đọc bản thảo của Kiên theo “một phương thức rất tùy nghi” (tr.280), đã “chép lại hầu như toàn bộ theo đúng cái trình tự tình cờ” mà anh ta có được. Nhưng sau khi chép xong, đọc lại, nhân vật “tôi” “ngỡ ngàng nhận thấy những ý tưởng của mình, những cảm nhận của mình, thậm chí cả những cảnh ngộ của mình nữa. Dường như do sự tình cờ của câu chữ và của bố cục, tôi và tác giả đã ngẫu nhiên hòa đồng tư tưởng, trở thành rất gần nhau. Thậm chí tôi ngờ rằng có quen anh trong chiến tranh” (tr.281). Dù Kiên đã “thay đổi ghê gớm”, nhưng nhân vật xưng “tôi” vẫn nhận ra Kiên: “Anh ta cao lớn mảnh dẻ, vẻ mặt không đẹp, lầm lì, có ánh nhìn man rợ...” (tr.281). Nhân vật xưng “tôi” và Kiên có sự gặp gỡ ở nhiều mặt: “Và tôi cũng như anh, cũng như mọi người lính thường khác của cuộc chiến tranh Việt - Mỹ, đã cùng chung một số phận, chia nhau đủ mọi cảnh ngộ thăng trầm, thắng bại, hạnh phúc đau khổ, mất và còn” (tr. 281). Vừa có nét chung nhưng mỗi người lại có những nét riêng, không ai giống ai: “Nhưng mỗi người trong chúng tôi bị chiến tranh chà nát theo một kiểu riêng, mỗi người ngay từ ngày đó đã mang trong lòng một cuộc chiến tranh của riêng mình nhiều khi hoàn toàn khác với cuộc chiến đấu chung, những nhìn nhận mà sâu trong lòng cực kì khác nhau về con người, về thời đại chiến trận, và đương nhiên mỗi người một số phận hậu chiến” (tr.281 -282).

Như vậy, Bảo Ninh hoàn toàn tự giác, nhất quán khi nhìn chiến tranh qua thân phận cá nhân của mỗi con người. Song nhân vật xưng “tôi” và nhà văn Kiên dẫu có khác nhau nhưng vẫn có chung một nỗi buồn chiến tranh: “Những chúng tôi còn có chung một nỗi buồn, nỗi buồn chiến tranh mênh mang, nỗi buồn cao cả, cao hơn hạnh phúc và vượt trên đau khổ. Chính nhờ nỗi buồn mà chúng tôi đã thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi bị chôn vùi trong cảnh chém giết triền miên, trong cảnh khốn khổ của những tay súng, những đầu lê, trong ám ảnh bạo lực và bạo hành, để bước trở lại con đường riêng của mỗi cuộc đời, những cuộc đời có lẽ chẳng sung sướng gì và cũng đầy tội lỗi, nhưng vẫn là cuộc đời đẹp đẽ nhất mà chúng tôi có thể hi vọng, bởi vì đây là cuộc sống hòa bình. Đấy chắc chắn là điều mà tác giả thực sự của tác phẩm này muốn nói” (tr.282). Như vậy, nhân vật xưng “tôi” và nhà văn Kiên cũng có chung niềm khao khát là thoát khỏi chiến tranh để được sống đời sống hòa bình. 

*

Là một tâm hồn đa cảm, nhạy cảm và tinh tế, gắn bó sâu sắc với thời đại, Bảo Ninh sớm nhận ra, đất nước những năm tháng sau chiến tranh, niềm vui chiến thắng qua đi rất nhanh. Một nỗi buồn bao trùm lên toàn xã hội, đi đâu cũng thấy buồn, gặp người nào cũng thấy buồn, cảnh ngộ nào cũng buồn, nhất là ở những vùng nông thôn nghèo khó. Đọc Nỗi buồn chiến tranh, có thể nhận ra, tác phẩm được tác giả viết trong một tâm trạng thật buồn, dằng dặc buồn. Một nỗi buồn sâu thẳm, thấm thía tỏa ra từ tâm hồn của người viết bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ núi sông, cây cỏ với những cơn mưa và bóng đêm như là những hình ảnh biểu tượng của chiến tranh, thấm đượm trong mỗi cuộc đời, trong từng số phận trong và sau chiến tranh. Tác giả viết rất thực với lòng mình. Bảo Ninh đã tinh tế, nhạy cảm nhận ra cái tinh thần chung của thời kì hậu chiến, đã nói rất đúng, rất sâu sắc và thấm thía tâm trạng chung của xã hội, của thời đại. Và tài năng của nhà tiểu thuyết ở đây là ông đã truyền được cái tâm trạng ấy, nỗi đau buồn ấy đến người đọc. Về phương diện này, Nỗi buồn chiến tranh đã đạt tới tầm kích lớn lao về sự chân thật mà ít ai trong số những nhà tiểu thuyết đương đại Việt Nam viết về chiến tranh vươn tới được.   

Với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã tạo nên một kiểu thuyết riêng. Ấy là một kiểu tiểu thuyết lồng trong tiểu thuyết, cốt truyện lồng cốt truyện, kết cấu nhiều tầng bậc, đan cài vào nhau, các mảng, các lớp hiện thực xếp chồng lên nhau, nhân vật chồng lên nhân vật, tác giả chồng lên tác giả. Tất cả những cái đó đã tạo nên sự giao thoa, cộng hưởng sâu sắc trong một chỉnh thể nghệ thuật. Nỗi buồn chiến tranh là một chuỗi những bi kịch. Bi kịch lồng trong bi kịch, bi kịch nối tiếp bi kịch, hết bi kịch này đến bi kịch khác. Đó là một cuốn tiểu thuyết đa chủ đề, tư tưởng vừa sâu sắc vừa giàu ý nghĩa. Một cuốn tiểu thuyết đầy tâm huyết. Bảo Ninh như rút hết gan ruột để viết nên kiệt tác văn chương này. Qua việc tập trung miêu tả chiến tranh là nỗi đau buồn lớn, muôn thuở của con người, Bảo Ninh đã cất lên tiếng nói ân tình đừng có bao giờ quên cuộc chiến tranh này, thể hiện thái độ trân trọng cái giá to lớn của con người, của dân tộc ta phải trả để làm nên chiến thắng, thực hiện ý chí độc lập, thống nhất đất nước, qua đó làm nổi bật khát vọng hòa bình của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.  

Vấn đề phong cách nghệ thuật tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, chúng tôi sẽ bàn đến trong một bài viết khác. 

Trần Đăng Suyền

Tin liên quan

Tin mới nhất

Nvidia vượt Microsoft, trở thành công ty giá trị nhất thế giới

Nvidia vượt Microsoft, trở thành công ty giá trị nhất thế giới

Ngày 3/6, Nvidia chính thức vượt qua Microsoft về giá trị vốn hóa thị trường, trở thành công ty niêm yết có giá trị lớn nhất thế giới. Thành công này phản ánh vai trò ngày càng quan trọng của trí tuệ nhân tạo trong ngành công nghệ, cũng như vị thế dẫn đầu của Nvidia trong lĩnh vực sản xuất chip AI.