Bền như rễ, xanh như lá, tươi như hoa

Tập thơ của Trần Văn Thuần đối với tôi vừa quen vừa lạ.

Quen vì tôi đọc thơ ông đã lâu. Ông làm thơ và có thơ đăng báo từ lâu, nhưng cứ làm thơ, ghi chép lại và... cất đi giống như nhiều người lính thời chống Mỹ. Nói như nhà thơ Hữu Thỉnh, các anh không có mộng làm thi sĩ mà chỉ ghi lại đôi câu, “ghi lấy cuộc đời mình" trong những năm tháng chiến tranh, nhiều mảnh đất người lính pháo binh ấy từng chứng kiến. Quen vì một lẽ ông người cùng làng với tôi, cái làng Vọc nghèo nàn, giàu truyền thống khoa bảng, điển tích văn hóa, cái rốn nước trong cái hồ nước Bình Lục “chiêm khê mùa thối" đằng đẵng một thời. Đọc ông thấy thơ chẳng khác những điều ông từng nghĩ, từng trò chuyện với nhau từ lúc còn đầu xanh tuổi trẻ nay đã ở tuổi thất thập. Quen từ cách nghĩ, cách cảm, đến ngôn từ trong thơ. Nhà thơ chẳng giấu được ai, yêu ghét rõ ràng, như câu thơ của ông; “Tiền tình hai tiếng ai chẳng thích./ Tích lấy thiện tâm hẹn cùng nhau" trong bài Hẹn cùng nhau.

Bền như rễ, xanh như lá, tươi như hoa - 1

Tác giả Trần Văn Thuần.

Nhưng cái lạ thì đúng là bất ngờ. Trong số hơn 60 bài thơ Trần Văn Thuần chọn in trong tập thơ đầu tay Hoa đổi mùa có khá nhiều bài có tứ lạ, trong mạch ngôn ngữ thơ dung dị bỗng lóe sáng những câu thơ, những từ xuất thần. Bạn có thể dễ dàng nhận ra những bài thơ hay trong tập, có thể đứng được với thời gian: Nắng sen, Bóng làng, Giếng làng, Lời cây, Thoắt đêm, Không lời, Khi đứa con chào đời... Và có nhiều câu thể hiện sự vững chãi của tay nghề thơ, nó hoàn toàn chuyên nghiệp, dẫu vẫn phải xếp sau cái nghề làm lính, làm cán bộ, làm thầy thuốc của ông. Bài Thoắt đêm là một thí dụ: 

Thoắt thôi vạt cỏ đê trăng 

Thoắt thôi chỉ có chị Hằng mới hay 

Thoắt thôi mà ấm vòng tay 

Ôm em ôm cả đắm say ngọt ngào

Lời thương thủ thỉ ngàn sao 

Mà nghe run rẩy giọng trao duyên mình 

Thoắt đêm đã vội bình minh 

Ríu ran chim hót, thập thình ban mai 

“Thoắt đêm” là từ sáng tạo, vừa gợi hình vừa gợi cảnh, gợi tình; vừa là tiếng lòng thủ thỉ vừa là ánh sáng, khí trời; vừa là lời trao nhau vội vã, bất ngờ mà dùng dằng, run rẩy quá chừng! Ban mai thập thình hay trống ngực thập thình, chỉ có chị Hằng mới biết được câu chuyện tình đêm trăng ấy thôi, 

Tập thơ Hoa đổi mùa quy tụ ba mảng đề tài chủ yếu: viết về làng quê; viết về những năm tháng trong quân ngũ và viết về nghĩa mẹ tình cha, vợ chồng, bè bạn. Ở mảng nào thế mạnh của tác giả là cảm xúc thơ luôn tạo đà cho anh đẩy tới những ý tưởng, những khám phá về cuộc đời, thế sự. Một lương y, một cô giáo, một bác nông dân, một người lính, cho đến một cây cổ thụ cao nhất thế giới, cây xoài ở ngõ quê, giếng làng thẳm xanh... đều khiến trái tim người thơ thổn thức. Ông bắt đầu từ những chuyện cụ thể, chuyện rất nhỏ thôi tưởng như chẳng có gì, nhưng bất ngờ phát hiện ra những điều lý thú, đó chính là cái chớp lóe trong thơ, là "con mắt" thơ. 

Bài thơ “Khi đứa con chào đời” kể về một người lính hi sinh anh dũng trên chiến trường, máu nhòa trong đất, nỗi đau thấm vào đồng đội. Thật bất ngờ, chính vào thời khắc sinh tử ấy, đứa con anh chào đời. Kết thúc và mở đầu. Nhưng thực ra sự hi sinh lớn thì không bao giờ là kết thúc. Tác giả viết: “Ôi chiều nay/Ngọt ngào và cay đắng/ Có ai hay/ xẻ chia cùng bạn/ Trăng mọc rồi/ vầng trăng gọi ban mai...". "Con mắt” thơ ấy ta cũng gặp ở cánh đồng lúa “mải vàng" khi sắp vào vụ gặt, ở mùa hoa cải "nở vàng trong mơ", "nở vàng trong thơ"; ở "chữ cong, chữ đứng" nên tình nghĩa thầy trò; ở “ngoảnh lại cuộc đời thoáng chốc", vv.... 

Viết về cây cổ thụ 800 tuổi cao hơn 115 mét, có lẽ là cao nhất thế giới, nhưng Trần Văn Thuần lại dùng những lời rất thủ thỉ, khiêm cung: "Ta đâu dám nhận mình cao nhất”, “Ta biết ơn từng giọt sương giọt nắng”, “Sinh và diệt lẽ đời là thế/Ta lớn cao lên nhờ bạn xa gần". Thế nhưng khi nói về một-cái-cây-cụ-thể bị trận lốc cuốn đi - cây xoài - ở làng quê, lại khiến lòng người xa xót, như khuyết đi một phần cơ thể, như vơi đi một khoảng râm của bóng làng: “Một ngày trận gió phũ phàng/Hồn cây xanh mãi bóng làng tôi yêu”. Ấy là lời cây. Tùy vào hoàn cảnh, tâm thế của mỗi người mà bạn đọc ra lời người. Ấy là cái mà thơ khác với văn xuôi. Thơ cốt gợi chứ không cần gói. Thơ như múa, cần múa cho đẹp, chứ không phải múa cho... đến đích. Còn khi nhắc tới Vườn Bùi, nơi nuôi dưỡng hồn thơ Nguyễn Khuyến, ta gặp ở đây một khu vườn yên tĩnh, thơ mộng, trong veo đến tận cùng. Chính là ta đã gặp tâm hồn nhà thơ từ quan về với ngõ quê dạy học, sống với dân nghèo. Thật bất ngờ hai câu kết: “Trăng dát bạc mẻ trời thu huyền ảo/ Trăng có về uống rượu với thi nhân?". 

Bốn mùa xuân hạ thu đông thấp thoáng trong thơ Trần Văn Thuần và đọng mật nhiều hơn cả là mùa xuân. Bởi trong mùa xuân còn có mùa yêu, mùa hoa, mùa bụi phấn bay trong lớp học, mùa con cháu về với quê hương, ông bà. Không cần mang hoa đâu, các con các cháu chính là hoa của ông bà rồi “Hoa là hoa của đất/Cháu là hoa của đời" (Hoa). Hoa đối với người thơ thường tượng trưng cho cái đẹp, cái duyên, cái mặn nồng, bền chặt, đổi thay, ước vọng. Cho nên hoa phải “đổi mùa" vì lẽ ấy. Đã là hoa thì phải thắm, phải ngát hương. Còn khi không sắc không hương thì cũng có ích khi nhắc người đời rằng có loài hoa giả. Mà chẳng cứ hoa. Cuộc đời này còn nhiều thứ giả lắm. Giả mà như thật, giả đánh bại thật, có kẻ chuyên làm hàng giả mà giao bán còn hơn cả thật. Cho nên mong lắm sự đổi mùa! Để cho cái thật, cái thiện, cái đẹp, cái có ích lên ngôi. Trước hết, lúc này đây là với thơ, phải chống thơ giả, chống thứ lòe loẹt, yêu ghét giả. Có thể bài thơ mang tên cho tập thơ này tác giả viết chưa “tới" được, chưa chuyên chở hết được ý tưởng. Nhưng qua những nét vỡ vạc ấy gợi lên rất nhiều điều. 

Và nếu được nói thêm về sự chưa hoàn hảo thì chỉ muốn nhắn đến nhà thơ đang muốn đổi mùa hoa rằng: Trong một số bài thơ ông còn nhiệt tình quá khi muốn chỉ lối cho bạn đọc đến với cái tâm thành, ý thật của ông. Điều đó nhiều khi khiến cho bài thơ như bị pha loãng, nhiều chữ, rậm lời. Đáng trách nhất là những lời to tát, lời đã cũ. Thành ra cứ có cảm giác chênh vênh khỉ tác giả đã có những bài thơ, vần thơ thật đẹp lại phải “cõng thêm” đôi vần chưa mấy dụng công. 

Ấy là mong muốn vậy. Nhưng với tập thơ này đã hứa hẹn một cây bút tuổi không còn trẻ sẽ có bước tiến mới, bền như rễ, xanh như lá, tươi như hoa. Nhà thơ vốn yêu người, yêu đất, yêu cây. 

Tin lắm! 

Hải Đường

Tin liên quan

Tin mới nhất

3 chòm sao sinh ra với số mệnh giàu có

3 chòm sao sinh ra với số mệnh giàu có

Những người thuộc 3 chòm sao này dường như sinh ra để trở nên giàu có. Họ với những tính cách và đặc điểm khác nhau, sẽ chinh phục đỉnh cao và khiến nhiều người phải ước ao, ngưỡng mộ.