Chiến tranh và người lính vấn đề muôn thuở của văn chương
Nhìn lại văn học giai đoạn từ 1945 đến nay, phần hiện thực quan trọng nhất là hiện thực chiến tranh, vấn đề lớn nhất là vấn đề con người trong chiến tranh. Bởi với dân tộc ta, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là vấn đề lớn nhất. Dù cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc đã im tiếng súng từ nhiều năm nay nhưng dư âm của nó không phải đã chấm dứt. Bằng chứng là một loạt tác phẩm gần đây viết về cuộc chiến ấy từ góc nhìn mới, cách lý giải khác. Nó thể hiện sự tiếp cận cuộc chiến ấy sau một độ lùi thời gian, sự trưởng thành của nhận thức và lý giải vấn đề đa diện hơn, đem lại cho con người cảm nhận đa diện, đầy đủ hơn về cuộc chiến và con người đã qua.
1. Về mặt nhân vật, trong văn chương, nếu người lính được thể hiện như một biểu tượng của thời đại, được gắn với những vấn đề của con người, cộng đồng, quốc gia, nhân loại trong hình hài của một số phận riêng biệt thì những tác phẩm ấy đạt tới tầm khái quát cao. Nói như một nhà nghiên cứu thì ở những tác phẩm như vậy, tọa độ lịch sử và tọa độ cá nhân đã hòa vào nhau, tạo nên một biểu tượng giá trị về thời đại mình. Nhưng, cũng phải nói cho công bằng, những tác phẩm như vậy rất hiếm. Nó đòi hỏi trước hết ở tài năng người cầm bút đã đành mà còn có cả nhiều yếu tố của thời đại mới chung đúc nên một tác phẩm như vậy.
2. Nhân vật “người chiến sĩ” như một biểu tượng của người lính trong chiến tranh cách mạng đã xuất hiện trong văn học trước 1945 nhưng nói về bản chất vẫn chỉ là một khái niệm. Chỉ từ khi chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, hình hài người chiến sĩ mới trở nên rõ nét hơn vì thực tiễn đã cung cấp cho nghệ sĩ một nguyên mẫu đẹp. Người lính trong văn xuôi được miêu tả kỹ nhất có lẽ là “bốn chiến sĩ” từ chiến khu về Thủ đô trong truyện ký Một lần tới Thủ đô của Trần Đăng. Họ chỉ có một tên chung là chiến sĩ. Mọi cử chỉ, hành vi của họ gần như giống nhau hoàn toàn. Họ thấy mình ngơ ngác, xa lạ với “cái thành phố đầy ánh sáng và len dạ” dù nơi ấy là một phần của đất nước, là "tổng hành dinh” của Chính phủ mình phụng sự nhưng nó dường như chưa thuộc về mình và còn có phần xa lạ. Họ không hẳn đối lập nhưng dường như đứng ngoài, đứng sang một bên những đồng bào và mảnh đất chưa phải là phần máu thịt của họ như sau này. Rồi họ trở về chiến khu khi kháng chiến nổ ra, hình ảnh “duy nhất ấm áp” họ còn nhớ được về cái “thành phố đầy ánh sáng và len dạ” là hình ảnh “lá cờ đỏ sao vàng sáng sáng được kéo lên cột cờ trên sân trường cỏ ướt”. Họ đẹp một cách lãng mạn, hơi bí hiểm và khác xa với cái hồ hởi, gần gũi, ấm áp của các anh bộ đội trong tình quân dân chỉ vài năm sau. Truyện này Trần Đăng viết như một ký sự, ghi lại chuyện mắt nhìn, tai nghe của chính mình - một người Hà Nội, một nhà văn - chiến sĩ, về những người đồng đội của mình, lần đầu tiên về Thủ đô. Truyện ký mang vẻ đẹp nguyên sơ của “cái thuở ban đầu”, có phần “từ chối”, “từ bỏ” gốc gác, liên hệ với một phần đời của họ mà cũng là của tác giả và cũng phản ánh rõ nét nhất quan niệm văn chương lúc ban đầu về một loại nhân vật sẽ trở thành nhân vật thời đại trong văn học dân tộc từ bấy cho đến nay.
Suốt thời gian kháng chiến và cho đến tận năm 1975, văn học viết về người lính không ngoài cảm quan sử thi và xét về mặt “tư tưởng thi pháp” chưa vượt ra ngoài quan niệm “phản ánh chân thật và hùng hồn những người thật, việc thật. Về cảm hứng chỉ đạo thì xuyên suốt mọi thể loại, cảm hứng phản ánh, tái hiện và ngợi ca chi phối toàn bộ từ cách tiếp cận hiện thực, chọn vấn đề và cách viết. Dù đã được tiểu thuyết hóa và mỗi nhà văn đều viết từ sự thôi thúc và lựa chọn của riêng mình thì hai dấu hiệu lớn ấy vẫn ôm trùm mọi thể loại, cảm hứng và lối viết. Nói chi tiết hơn là cách viết mới chỉ dừng lại ở lối kể việc, kế sự kiện, kể người chứ chưa chạm được đến tầng sâu của phận người. Rất hiếm những tác phẩm viết về chiến tranh và người lính nằm ngoài đường viền này. Những năm chống Mỹ, nhà văn không được toàn tâm toàn ý cho sự viết mà muốn tồn tại phải cầm súng trước hết. Giết giặc là nhiệm vụ hàng đầu, cầm bút cũng là nhiệm vụ nhưng nhiệm vụ này phải phục vụ cho việc chiến đấu giành độc lập dân tộc. Tâm thức thời đại thế, nhà văn không thể làm khác (Nguyên Ngọc - Xuống đồng bằng, hồi ký chiến tranh).

Chào quê hương, các chàng trai Thủ đô vào chiến trường niềm Nam chiến đấu năm 1971. Ảnh: Mầu Hoàng Thiết
3. Những chuyển động về ý thức văn nghệ không phải chỉ sau 1975 mới xuất hiện mà nó đã manh nha từ những năm kháng chiến chống Pháp. Nhưng do nhiều lý do khách quan và chủ quan, nó tạm thời bị xếp sang một bên để nhường chỗ cho những nhu cầu cấp thiết, trước mắt không phải cho cá nhân mà cho cộng đồng. Gương mặt chung, tâm hồn chung của cộng đồng, dân tộc cần hơn của cá nhân và khi những ý nghĩ riêng tư đến, nghệ sĩ đã tự mình dẹp nó lại để chú ý đến những cái của chung, đất nước, nhân dân (ý thơ của Chế Lan Viên).
Khoảng cách lùi sau chiến tranh và những vấn đề hậu chiến đã khiến người ta phải nhìn nhận lại chính bản thân mình. Cũng là vì cuộc sống, vì tương lai của đất nước nhưng làm gì và đi theo cách nào trở thành câu hỏi của mọi người. Yêu cầu đổi mới trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không biết có trước hay sau yêu cầu đổi mới góc nhìn, cách viết của các nghệ sĩ nhưng chắc chắn có sự tương hỗ và thúc đẩy lẫn nhau. Bởi một khi vấn đề xã hội đã đặt ra một cách cấp bách thì người nghệ sĩ phải vào cuộc. Hơn nữa sự nhạy cảm của nghệ sĩ bao giờ cũng giúp họ nhận thấy “một điều gì đó” từ những hiện tượng riêng lẻ rồi theo cách của mình, họ biến thành những vấn đề của văn nghệ, nêu ra những dự báo cho toàn xã hội. Sự mẫn cảm của nghệ sĩ như chất xúc tác làm cho quá trình nhận thức mang ý nghĩa thức tỉnh trở nên cụ thể và bức thiết hơn.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiên phong đặt ra vấn đề này một cách hệ thống, bài bản nhất. Ban đầu là bài Viết về chiến tranh và sau đó là Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa của ông gây chấn động đời sống văn nghệ bởi cách đặt vấn đề mới mẻ, sâu sắc và mang ý nghĩa thức tỉnh, yêu cầu nhận thức lại quan niệm về hiện thực đời sống, người lính, con người và cách viết của một thời. Hai bài báo của ông cùng với bài của Hoàng Ngọc Hiến Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua gây ra một “cơn bão” tranh luận trong giới cầm bút. Vấn đề mới mẻ đã đành, những nhận định, đánh giá về cách viết cũ thực sự gây sốc cho cả những nhà văn đã dành gần cả một đời viết theo lối sử thi, tụng ca.
Luận điểm quan trọng nhất trong lập luận của nhà văn là văn học viết về chiến tranh mới dừng lại ở chỗ kể sự việc, kể chiến công chứ chưa đụng được đến tầm sâu của số phận con người và cách viết cơ bản vẫn chỉ là minh họa cho chủ trương, đường lối, bởi nhà văn luôn tráng một lớp men lãng mạn lên hiện thực chiến tranh và hiện thực đã không còn là chính nó. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng “suy tư tưởng” (chữ dùng của Lê Ngọc Trà) của văn nghệ giai đoạn 1945 - 1975. Đến khoảng những năm 90 của thế kỷ trước, vấn đề này đã được giải quyết về căn bản. Thực tiễn đã chứng minh cái gì đúng, cái gì sai, cái gì chệch choạc, cái gì cực đoan, cái gì bị hiểu lầm, xuyên tạc trong những cuộc tranh luận về vấn đề này và trên đường hướng chung góc nhìn về con người đã tiệm cận lẽ phải.
Phải nói một cách công bằng là văn học viết về chiến tranh từ sau những năm đổi mới đã mang sắc thái khác giai đoạn trước. Từ vấn đề người lính trong chiến tranh giành độc lập được nhìn nhận đa diện hơn trong một thực tiễn chiến tranh gần với chính nó hơn, những vấn đề về con người nói chung cũng đã thay đổi. Từ góc nhìn sử thi, từ cảm hứng tụng ca đã chuyển sang góc nhìn thế sự, đời tư, từ nhân vật “nhất phiến, nguyên khối, trong suốt” (như có nhà phê bình đã tổng kết) chuyển sang góc nhìn đa diện, nhiều chiều gần với đời thường hơn, thậm chí nhân vật đa nhân cách đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh, Thái Bá Lợi, Trung Trung Đỉnh, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Lập... những năm 80, 90 của thế kỷ trước đã khởi đầu cho một giai đoạn cần nhận thức lại nhiều vấn đề về chiến tranh, hiện thực, con người. Họ không phủ nhận thành tựu văn học trước đó, cũng không hề nói đến một thái độ ngược với góc nhìn phổ biến của văn học nước nhà giai đoạn 1945 - 1975 mà bằng tác phẩm của mình đề xuất một góc nhìn đa chiều, nhiều mặt và tất nhiên nó gần với cuộc sống hơn.
Trong những tác phẩm của những người lính trực tiếp cầm súng trên các chiến trường B, C, K, hay biên giới phía Bắc những năm gần đây thực tế chiến tranh và con người trong chiến tranh được soi xét từ nhiều góc độ hơn, cảm hứng cũng đa màu sắc hơn. Mỹ học cổ điển của cái anh hùng, cao cả đậm chất lý tưởng đan xen với mỹ học của cái hàng ngày, gần gũi với cuộc sống hơn, nó gần với cái đời thường hơn. Nhân vật người lính không chỉ được soi chiếu từ góc nhìn chính trị, cảm hứng anh hùng nữa mà nó được nhìn nhận từ góc độ bản thể nhiều hơn. Khía cạnh thế sự, đời tư, nhiều góc khuất trước đây thường bị “bỏ quên”, bây giờ được phơi bày ra tất cả. Góc nhìn ấy không làm giảm giá trị của nhân vật người lính - người anh hùng hoặc mang những phẩm chất anh hùng ở tuyến đầu chống giặc mà làm cho nhân vật dày dặn hơn, gần đời sống hơn, sự lý giải về số phận của họ cũng thuyết phục người đọc hơn. Từ góc nhìn ấy giọng điệu, ngôn ngữ kể chuyện cũng đổi khác. Nó không còn một giọng, thống nhất (và tất nhiên đơn điệu) như trước mà nhiều giọng điệu, nhiều bè, đem lại cho người đọc một cảm nhận cuộc sống hiện ra gần gũi, cụ thể, đa màu sắc hơn.
Gần đây nhất, cuốn tiểu thuyết viết về chiến tranh Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9 của Nguyễn Một được trao giải Nhất của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2024 là một minh chứng đổi mới về góc nhìn chiến tranh, người lính và con người nói chung. Góc nhìn của Nguyễn Một về chiến tranh và con người đã được đánh giá cao chứng tỏ một sự thay đổi theo xu hướng này đã được thừa nhận. Nó không giống như hồi Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh xuất hiện người đồng tình nhiều nhưng người có ý kiến khác cũng lắm. Cách tiếp cận hiện thực chiến tranh (nỗi buồn) làm không ít người thấy bị sốc.

Nhà trường, gia đình, bạn bè tiễn đưa sinh viên Trường Đại học Tổng hợp lên đường nhập ngũ, năm 1971. Ảnh: Mầu Hoàng Thiết
4. Từ những điều đã trình bày ở trên tôi cho rằng hiện thực chiến tranh, nhân vật người lính vẫn là một hiện thực cần tiếp tục và nhân vật người lính vẫn là nhân vật quan trọng của văn học dân tộc bây giờ và mai sau. Sau mấy chục năm biến đổi và định hình giá trị về con người, trong đó có cả hình ảnh người lính, văn chương đã dần điều chỉnh thái độ của mình. Nhưng vẫn còn đó một vấn đề chưa giải quyết được. Đó là vấn đề suy tư tưởng trong văn chương mà Giáo sư Lê Ngọc Trà đã nói đến từ những năm 80 của thế kỷ trước.
Tình trạng suy tư tưởng của văn học mà Giáo sư Lê Ngọc Trà nói đến không phải do văn học nước nhà không quan tâm tới vấn đề này mà do nó xử lý chiều sâu tư tưởng chưa phải bằng cách làm của văn chương. Nó chưa biến các tư tưởng của thời đại thành những vấn đề của mỗi con người mà cũng là của chung xã hội, là chuyện của xã hội thông qua văn chương mà nó dùng văn chương để minh họa cho những vấn đề tư tưởng, nó mới dừng ở chỗ nói lại, nói theo tư tưởng. Nói cách khác, văn học mới chỉ dừng lại ở chỗ “phản ánh hiện thực” mà chưa đạt tới tầm “nghiền ngẫm hiện thực” theo cách của văn chương. Có nhiều người đã bàn về vấn đề này, cả đồng tình và phản đối. Tôi nghĩ, về mặt lý thuyết vấn đề đặt ra rất hay. Bởi không có nhà văn lớn nào, một nền văn nghệ lớn nào lại không nêu ra và thể hiện một cách sâu sắc những tư tưởng lớn về cuộc sống và con người. Tư tưởng chiến đấu vì độc lập tự do, vì quyền sống của con người như mọi người dân Việt đã tiến hành trong suốt nửa thế kỷ qua cũng là những tư tưởng lớn của thời đại, mang tinh thần nhân văn cao cả. Những điều đó dường như thấm đẫm trong toàn bộ nền văn học nước nhà. Vậy mà tại sao vấn đề suy tư tưởng vẫn được đặt ra và vì sao cả người sáng tác (Nguyễn Minh Châu) và nhà nghiên cứu (Lê Ngọc Trà) lại nói như vậy?
Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng văn chương đạt đến những tư tưởng lớn của thời đại bằng con đường của riêng nó chứ không phải nói theo, minh họa cho chính trị. Về tư tưởng chính trị, gần như tuyệt đại đa số các tác phẩm đều đúng theo tinh thần chung của thời đại nhưng ít có tác phẩm hay vì văn chương nếu chỉ dừng ở mức minh họa nó sẽ tự chết ngay từ điểm xuất phát. Văn chương cần đến sự sáng tạo, về những cách thức độc đáo lôi cuốn người đọc ở cả tầm tư tưởng và cách thể hiện không nhằm minh họa mà bằng những con đường riêng để đi đến đích, cái lớn của những tư tưởng lớn phải hóa thân vào hình tượng nghệ thuật. Tư tưởng phải hóa thân vào câu chữ, câu chuyện, số phận, tình cảm... và đỉnh cao tư tưởng của tác phẩm phải được nhận thức sau khi tác phẩm đã kết thúc.
Văn chương tư tưởng khi nó lựa chọn con đường đi là minh họa cho tư tưởng. Điều này chứng minh cho một nguyên lý: Không có tác phẩm nghệ thuật nào không mang tính tư tưởng, không đứng ngoài những luận đề về cuộc đời và con người nhưng đích văn nghệ hướng đến là toàn bộ cuộc sống được trình bày như chính nó, không thể khác và luận đề được chứng minh ở bản thân cuộc sống dưới hình thức hấp dẫn đến mê đắm của nghệ thuật ngôn từ chứ không phải qua những cách thức sắp xếp lộ liễu của tác giả. Nhà chính trị giáo huấn bằng tư tưởng đúng sẽ được ủng hộ còn nhà văn nếu lựa chọn hình thức giáo huấn là đã lựa chọn đi theo, đi sau tư tưởng và lúc đó không cần đến văn chương nữa.
Trong điều kiện hiện nay, nhân vật người chiến sĩ có còn hấp dẫn những người cầm bút như trong thời gian chiến tranh hay không? Đó là một thực tế. Nhưng cũng lại có một thực tế khác: Không ít tác phẩm viết về chiến tranh của những người chưa từng trải qua chiến tranh vẫn gây xúc động con người, vẫn đặt ra những vấn đề tư tưởng lớn của thời đại. Chiến tranh và Hòa bình của L. Tônxtôi, Chiến tranh không có một gương mặt phụ nữ của X. Alecxievich hay một số cuốn sách của Phan Thúy Hà gần đây như Đừng kể tên tôi, Tôi là con gái của cha tôi là những cuốn sách viết về chiến tranh có độ lùi về thời gian để suy ngẫm về những câu chuyện của lịch sử đã qua nhưng từ cảm hứng gần với hiện thực đa chiều nhất.
Sở dĩ những tác phẩm đó thành công vì các nhà văn ấy đã nhìn những vấn đề của chiến tranh và con người như là một thực tiễn của lịch sử, ở đó khi con người bước chân vào và thoát ra khỏi chiến tranh đều như những con người có vận động, biến đổi cả nhận thức và tình cảm. Họ lựa chọn cầm súng vì cuộc sống đòi hỏi và họ hiểu sâu sắc việc họ làm. Những vấn đề lịch sử và số phận cá nhân được gắn với nhau từ nhiều quan hệ. Và chúng ta hiểu về cuộc chiến ấy, thời đại ấy qua những số phận cá nhân trước những lựa chọn lịch sử. Họ không bị che khuất mà họ nổi lên như những con người của thời đại ấy, sống động như họ đã từng sống.
Xét về phương diện văn nghệ, nhân vật anh bộ đội vẫn là một trong những nhân vật quan trọng của thời đại. Chiến tranh qua đi, trừ một số người lính gắn bó trọn đời với môi trường người lính, những thử thách khốc liệt nhất cũng không còn hiện diện trong đời sống ngày thường và phần đông những người lính nghĩa vụ sẽ rời quân ngũ trở lại với môi trường dân sự. Thêm nữa, người lính không còn sống với cuộc chiến đấu sống chết hàng ngày mà phải đối mặt với muôn mặt đời thường, với cuộc đời thế sự giăng mắc những tính toán, vui buồn, hạnh phúc và khổ đau... không khác người dân bao nhiêu. Đó là một thực tế. Vì vậy người lính với tư cách là đối tượng khai thác và phản ánh của văn nghệ dường như có tản mạn hơn, đa diện và cũng khó nắm bắt hơn.
Mặt khác, những người lính trong quân ngũ ngày nay cũng còn phải sẻ chia nhiều quan tâm khác ngoài đời sống quân ngũ. Đây là một thực tế, là một khó khăn nhưng nhìn ở phía khác lại cũng thấy ở đó có những khía cạnh để nhà văn tiếp cận và khai thác họ ở nhiều góc độ mới. Quan hệ xã hội mở rộng, mối quan tâm và đời sống tinh thần của họ với tư cách là một phần của hiện thực được mở ra nhiều chiều hơn, lại tạo điều kiện cho người nghệ sĩ có quyền tung hoành hơn trong khám phá và sáng tạo. Những vấn đề riêng tư, gắn với số phận con người có cơ hội để được đào sâu hơn.
Xã hội đang biến đổi. Diện mạo xã hội và đời sống con người cũng đang thay đổi. Những chuẩn mực giá trị mới đang vận động, trong đó có cả những điều đúng đắn và cả những lệch lạc. Ở môi trường dân sự những khát khao quyền lực, lợi ích kinh tế, danh vọng... đang làm xã hội điên đảo, làm cho con người phải gồng mình lên lựa chọn những điều tử tế để đứng vững trước các thử thách cũng có những tác động đến người lính và môi trường sống của họ. Đó cũng là một thực tế không có trong thời kỳ chiến tranh hay nó bị chìm đi trước những đòi hỏi cấp thiết hơn. Nhưng người lính lại cũng đang gánh trên vai những trọng trách lớn: bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, bình yên cho đất nước, luôn ở những tuyến đầu của cuộc đấu tranh. Tính chất đặc biệt trong công việc hàng ngày của họ vẫn đòi hỏi những phẩm chất của những người tiên tiến trong cuộc sống bình thường, là những cái lớn lao trong những cái bình dị.
Đây là giai đoạn mà con người cá nhân, con người riêng tư đang chịu nhiều tác động nhất và mỗi cá nhân cũng đang phải đứng trước những lựa chọn. Có thể những phẩm chất anh hùng và những hành vi phi thường không phải là cái hàng ngày trong đời sống của họ nhưng bản lĩnh của người chiến sĩ luôn đứng ở tuyến đầu vẫn là những đòi hỏi và phẩm chất ở họ. Không phải chỗ nào cũng là Trường Sa, không phải người lính nào cũng ở biên giới nhưng họ vẫn phải hàng ngày đấu tranh để vượt lên trên những lựa chọn nhỏ nhoi, riêng tư để sống cùng với những đòi hỏi của đất nước, nhân dân đặt vào họ. Đây cũng là một thử thách đối với người cầm bút mà nếu không hiểu được điều đó cũng khó có thể có những sáng tạo mang tầm vóc thời đại.
Mặt khác, những vấn đề của chiến tranh, hòa bình, thái độ của con người trước những vấn đề lớn như vậy luôn là những suy nghĩ thường trực của người lính do môi trường sống của họ, trách nhiệm xã hội của họ là những gì họ phải đối mặt hàng ngày cũng vẫn luôn thu hút người cầm bút. Những tác phẩm viết ra từ chiến hào có những lợi thế ở khía cạnh trực tiếp, tươi mới của hiện thực nhưng những tác phẩm có độ lùi của thời gian lại có những lợi thế mà người viết ra trực tiếp không sánh được. Đó là độ lắng của cảm xúc trực tiếp, độ chín của tư duy và soi chiếu của những góc nhìn khác sẽ giúp cho tác phẩm có chiều sâu tư tưởng và cái nhìn toàn diện hơn.
Sau năm 1975, tiếp xúc với những sinh viên Văn khoa Sài Gòn, tôi có hỏi họ về văn học “đằng mình”. Họ nói đọc thấy lạ, thích lắm. Có cái gì đó trong trẻo, khỏe khoắn, nhiều sức sống ở nhân vật người lính - điều không thể tìm thấy trong văn học miền Nam trước đó. Họ nói như được hưởng một làn gió mới nhưng nói thêm “nhân vật văn học đẹp như những thiên thần”. Tôi hiểu điều họ nói. Nhân vật người lính của chúng ta giai đoạn ấy giầu chất lý tưởng quá, toàn vẹn quá. Những phẩm chất ấy đáng quý nhưng nó như của những người đặc biệt, lý tưởng, những vui buồn ở họ cũng gắn với một thế giới khác. Bây giờ vẫn cần đến những phẩm chất ấy nhưng đừng biến người lính của chúng ta thành thánh thần, họ phải thực sự là con em nhân dân, từ nhân dân mà ra, sống, hạnh phúc hay khổ đau đều phải gắn với những vấn đề của người, đồng loại.
Nhân vật người lính trong văn học, nhìn từ văn học dân gian sang văn học viết, từ nhân loại đến chúng ta, từ xưa đến nay, vì vậy vẫn là một đề tài hấp dẫn và ở nhân vật này bao giờ cũng hội tụ nhiều vấn đề của thời đại và con người.

Cái thời ấy tưởng đã xa lắm, cả một kiếp người rồi, nhưng vẫn làm ta nhung nhớ. Cái thời ấy đã đóng dấu vào cuộc...
Bình luận