Lắng trong “Tiếng mõ cầu…”

(Về tập truyện ngắn “Tiếng mõ cầu trong gió” của Nhà văn Trần Đắc Hiển Khánh-NXB Văn học, 2023)

Kể từ sau chiến thắng lịch sử 30/4/1975 kết thúc sự nghiệp chống Mỹ, non sông thu về một mối, cả nước vượt bao khó khăn, tiến hành công cuộc Đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, đến nay đã gần nửa thế kỷ sắp trôi qua nhưng những ký ức chiến tranh thì vẫn chưa thể xóa nhòa trong tâm trí bao người, nhất là những người phụ nữ. Bởi họ, những người vợ, người mẹ phải gánh chịu nhiều nỗi đau ghê gớm nhất, khó phôi phai nhất của chiến tranh.

Có một bà má đã ngót chín mươi tuổi, làm nghề chèo đò nên gọi là bà Tư Đò, nhà ở xóm Bến, gần cầu Xẻo Me, chồng là ông Tư Đờn. Ông bà sinh được bốn người con trai, thì hai anh lớn đều đã hy sinh. Trong khi người con thứ ba và thứ tư của ông bà, trớ trêu thay, bị bắt quân dịch làm lính Việt Nam Cộng hòa. Người con thứ ba cũng chết trận. Chàng trai út, tốt nghiệp Đại học Y, bị bắt vào lính làm bác sỹ quân y. Anh đã có người yêu, đúng hôm dẫn cô về ra mắt cha mẹ, họ hàng để làm đám cưới thì nhận lệnh phải quay về đơn vị gấp, và anh cùng đồng đội chết tan xác vì đạn pháo. Người vợ sắp cưới của anh đã mang thai, sau sinh ra một cậu con trai kháu khỉnh, lớn lên học giỏi, rồi tốt nghiệp đại học. Bấy giờ cậu con trai mới có điều kiện hỏi mẹ về gốc gác của mình, dù từ nhỏ anh đã có cha dượng hết lòng chăm sóc anh khôn lớn.

Theo lời mẹ kể, anh tìm về vùng quê ngã ba sông, nơi có xóm Bến gần cầu Xẻo Me, tìm được bà nội đang sống cô đơn cùng ảnh ba người con trên bàn thờ - chính là ba người bác ruột, trong đó hai người là chiến sỹ giải phóng hy sinh, bác thứ ba là lính Việt Nam Công hòa chết trận. Xúc động, anh rút tấm ảnh từ túi áo ngực mẹ anh đưa cho, bà nội anh run run đón ảnh “thằng út” của bà đặt lên bàn thờ bên ảnh con thứ ba, thế là đầy đủ bốn con trai Hiếu - Thảo - Lễ - Nghĩa của bà hiện diện. Giọng bà nghẹn ngào: “Con một nhà. Ở hai phía… Thế mới nên chuyện… Nâng lên đặt xuống mãi tôi mới được hưởng đầy đủ chế độ chính sách. Cùng được công nhận Mẹ Việt Nam anh hùng…”.

Lắng trong “Tiếng mõ cầu…” - 1

 Tập truyện ngắn “Tiếng mõ cầu trong gió” của Nhà văn Trần Đắc Hiển Khánh.

Còn đây là chuyện một người phụ nữ ngoài Bắc, ở vùng quê Vụ Bản, Nam Định. Cái vùng quê người dân có truyền thống nói có vần, họ nói với nhau và nói với người lạ đều có vần điệu. Chính ở vùng quê ấy, sau hòa bình lập lại (1954) và sau cải cách ruộng đất, có một đôi trai gái yêu nhau thắm thiết, qua bao hò hẹn trong vườn bưởi ngan ngát hương thơm. Vào hôm bố đẻ chàng trai sang nhà cô gái để chính thức “có lời” xin cho chàng được làm rể nhà cô, thì bất ngờ ông bác của Bưởi - tên cô gái - chặn bố chàng trai lại, nói vỗ mặt rằng: bố con mày ăn cháo đá bát, tố bố tao bóc lột, trong khi chính bố tao đã cưu mang, nuôi nấng bố con mày. Ông Bùng em tao không thể gả con gái cho thằng tứ cố vô thân!

Thế là nửa đêm hôm sau, Đỗ bị bố lôi dậy, kéo thốc ra khỏi làng. Vượt qua mênh mông biển cả, bố con Đỗ vào vùng đất phương Nam. Và số phận đưa đẩy Đỗ thành một đại úy của quân lực Việt Nam Cộng hòa, về coi trại tù B.H. Tại đây, một hôm đại úy Đỗ gặp chiến sĩ giải phóng bị bắt làm tù binh. Anh ta tên là Đức, Trần Văn Đức, hai mươi tuổi, đã học năm thứ ba đại học. Hỏi cha mẹ, anh ta nói: không có cha, và nói thêm: mỗi lần nhắc tên mẹ cha, tôi thấy thiêng liêng lắm. Nghe lời khai của người chiến sỹ giải phóng, cái giọng Bắc vang, ấm, nhìn dáng hình chàng trai, tự nhiên đại úy Đỗ thấy khang khác, như có điện chạy trong người. Rồi một hôm dọn trại, đổi phòng, chính đại úy Đỗ đã cứu Đức khỏi bị một tên đại ca giang hồ định làm trò đồi bại. Từ đó, Đức coi đại úy Đỗ là ân nhân.

Sau ngày miền Nam giải phóng, nhân dự đám cưới dâu Bắc - rể Nam, ông Đỗ gặp được người làng Đọi quê mình. Chợt nhớ bà Bưởi - cô Bưởi người yêu xưa, cùng với tình quê thiêng liêng thầm gọi, ông quyết định tìm đường về quê.

Đây là những đối đáp của ông Đỗ và bà Bưởi khi họ gặp lại nhau ở cái làng Đọi có tục nói vần vè:

- Tôi là kẻ có tội…

- Tội giội xuống ao/ Nhào ra sông/ rông ra biển.

- Nếu không có chuyện ấy… (chuyện cái trò trẻ con đã cho tôi và ông một thằng con (lời bà Bưởi).

- Thôi cũng là duyên phận tại trời. Trời còn để có hôm nay…

Trước đó, vẫn là đối đáp của hai người

- Chúng mình… hồi ấy…

- Từ khi ông bặt tăm hơi/Mình tôi gánh cả một đời đắng cay!

- Giờ đây sương trắng mái đầu/Chả cần nhắc lại nỗi sầu làm chi…

- Rồi bà không sống với ai à?

- Tôi như một cây đàn bầu/Dây tơ đứt đoạn, cung sầu lặng câm…

Vậy là mọi chuyện sáng tỏ: hai người có với nhau một con trai, và bà Bưởi ở vậy nuôi con khôn lớn. Bất chợt lúc đó, con trai họ - anh Trần Văn Đức - từ cơ quan về, nhận ra ân nhân cứu mình ở trại tù B.H ngày nào, giờ mẹ Bưởi cho anh hay: đó là cha đẻ của mình…

Và… chuyện người phụ nữ thứ ba không thể không kể lại:

Chuyện xảy ra ở bến Bạ, trong một ngôi chùa ở bên sông, gấn bến. Một đơn vị quân Việt Nam Cộng hòa bị đánh tơi tả, thương binh được gom về chùa, chỉ có một y sĩ bất đắc dĩ với túi thuốc dã chiến ít ỏi trông nom, điều trị. Nhưng thật may, thám báo bắt được hai chiến sĩ giải phóng đi lĩnh thuốc và thực phẩm về, trong đó có một nữ y tá. Cô được giao việc giúp người y sĩ của đơn vị điều trị cho các thương binh và cô đã làm tốt công việc của một thầy thuốc.

Sự tận tụy và tính tình hiền dịu của cô y tá tên là Tâm ấy đã khiến người lính thương binh Việt Nam Cộng hòa mến phục, và vào một nửa đêm, anh dẫn cô ra bến sông để cùng cô trốn. Nhưng rồi ra đến bến sông, gặp loạt đạn AK, dù được cô y tá Tâm nắm tay bảo: “Đi với em! Theo em!”, nhưng người lính sợ hãi, giật mạnh tay, chạy thục mạng, chỉ mình y tá Tâm trốn thoát. Sự hèn nhát đánh mất tình yêu khiến người lính ân hận suốt mấy chục năm, kể cả khi anh ta sang Mỹ, thành một Giáo sư Đại học, có vợ và một con trai thành đạt.

Rồi tình cờ người lính - Giáo sư ấy gặp Thùy An từ Việt Nam sang làm nghiên cứu sinh, dự hội thảo ở thành phố San Jose. Ông chủ động làm quen, mới hay Thùy An chính là con gái của y tá Tâm, người ông yêu ngày trước ở ngôi chùa bên bến Bạ năm nào, nhưng vì sự sợ hãi, hèn nhát mà mất cô. Ông càng đau khổ hơn khi Thùy An cho biết: mẹ cô, vì nhiệt tình chăm sóc cho ông và thương binh Ngụy mà bị tổ chức nghi kỵ, không tin dùng. Đấy là lý do ông từ Mỹ tìm về ngôi chùa bên bến Bạ, nơi y tá Tâm xưa, nay đã thành sư thầy Tâm ở chùa để làm thuốc chữa bệnh cho mọi người, sau khi chồng bà - một đồng đội cũ - chết bệnh, và Thùy An con gái bà tốt nghiệp đại học…

Vậy đó, chiến tranh và thân phận ba người đàn bà ở ba vùng quê khác nhau, tuổi tác khác nhau, nhưng đều gánh chịu nỗi đau do cuộc chiến chống Mỹ cứu nước ập xuống cuộc đời họ.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng có lần nói: Chiến tranh là thử thách cao nhất đối với mỗi Quốc gia, Dân tộc.

Đấy là nói ở tầm vĩ mô. Và chính vì vậy, ở tầm vi mô, chiến tranh gây ra vô vàn những tội lỗi, ngang trái, trớ trêu, mà ba người đàn bà vừa kể trên trong các truyện Đoàn tụ, Giấc mơ trên cánh diềuTiếng mõ cầu trong gió là những ví dụ. Có thể dẫn các truyện Ranh giới mong manhNgười coi vuông tôm và con cầu dừa để thấy thêm những tai ương do chiến tranh gây nên.

Lê Đại (trong Ranh giới mong manh) do nhanh nhẹn, tháo vát, giỏi bơi lội nên mới là thằng bé chăn trâu đã được giao cho làm liên lạc, lớn thêm một chút được làm chiến sĩ kiêm chân thủ quỹ của đội du kích địa phương. Mọi việc đang êm xuôi thì Đại vướng kỷ luật vì hai tội: đánh mất tiền quỹ của đơn vị, và dính chuyện yêu đương một cô gái có anh trai đi lính Việt Nam Cộng hòa.

Như vậy là mắc hai tội nặng nhất: Tham ô và hủ hóa. Lại đúng giai đoạn đang thử thách người Đảng viên dự bị. Đã mấy cuộc họp Đại bị kiểm điểm, kết luận vẫn là: Mất lập trường quan điểm trong yêu đương, lấy tiền quỹ bao gái nên mới khai là đi lĩnh quỹ về bị mất. Đã mắc “tham ô”, lại thêm tội “hủ hóa” như thế thì phải bị khai trừ Đảng, và vẫn phải bồi thường toàn bộ số tiền công quỹ.

Khốn khổ, một chàng trai nông thôn hai mươi tuổi, trước lý lẽ được tổ chức cấp trên gợi ý chắc như đinh đóng cột vậy, còn biết thanh minh thế nào? Thế là ngậm đắng nuốt cay chịu kỷ luật. Chán đời, quăng thân vào những cuộc rượu, trong đó có cuộc say với người anh họ đang là lính “bên kia”. Sau mấy cuộc say cùng người anh con ông cậu ấy, Đại theo anh về đồn “nghĩa quân” của anh.

Rồi một đêm, du kích công đồn, Đại đang ở trong hầm với người anh được giao giữ khẩu súng máy bắn trả du kích. Chẳng may người anh bị thương. Đại bị tên trưởng đồn dí súng vào gáy bắt làm xạ thủ thay người anh bắn lại du kích. Thông tin sau trận đánh: khẩu súng máy rất lợi hại, làm sát thương nhiều chiến sỹ giải phóng. Thế là Đại mắc thêm tội thứ ba: phản bội!

Rồi những ngày tháng 5 năm 1975 lịch sử, Đại nhắm mắt hòa trong dòng người hỗn loạn. Cuối cùng, anh dừng chân ở trang trại của một ông già phúc hậu, được ông thu nhận cùng cháu ông làm vườn. Chiến tranh biên giới nổ ra. Ông già chủ trang trại dẫn Đại đến ban tuyển quân của địa phương xin cho anh được nhập ngũ theo ý nguyện của anh. Đại được biên chế vào đơn vị quân tình nguyện sang giải phóng Campuchia. Khi cuộc giải phóng Campuchia khỏi họa diệt chủng kết thúc thắng lợi, Đại được xuất ngũ. Sau mấy đêm thức trắng, anh quyết định phải đối mặt với sự thật: trở về quê với bố mẹ, khai báo mọi chuyện. Tội thì phải chuộc, nợ thì phải trả, để được sống thật là mình.

Chuyện đến đây tưởng hết, hóa ra còn cái “vĩ thanh”: Tình yêu ngày xưa của Đại và cô Huệ để lại cho hai người một con trai…

Cũng nên suy ngẫm thêm truyện “Người coi vuông tôm và con cẩu dừa”. Đó là chuyện một đại úy quân giải phóng, sau chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, về phụ trách một cơ sở, có công dìu dắt một thằng bé bán bánh mì thành một cán bộ. Nhưng rồi đại úy yêu con gái một sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, bị kiểm điểm xác định lập trường, quan điểm. Đại úy không nhận lỗi, vì theo ông, tình yêu không có lỗi, và cho rằng “không phải cứ người phía bên kia là xấu”. Và ông chấp nhận kỷ luật, “về với ruộng là chắc ăn, dĩ nông vi bản”. Trong khi, thằng bé bán bánh mì được đại úy dìu dắt, cộng thêm sự ranh ma “thức thời”, không chỉ thành một cán bộ lãnh đạo, mà còn dần trở thành một đại gia, thành ông chủ của những vuông tâm mà ông già đại úy là người làm bảo vệ…

Truyện để lại cho người đọc nhiều dư âm về lẽ sống ở đời.

Đấy là hồn cốt của tập truyện ngắn Tiếng mõ cầu trong gió, tập truyện ngắn thứ hai và là tác phẩm văn học thứ 6 của nhà văn Trần Đắc Hiển Khánh, vừa ra mắt bạn đọc do NXB Văn học ấn hành. Ông tên khai sinh là Trần Đắc Xuân, nguyên là nhà giáo, khi viết văn lấy tên quê “Hiển Khánh” làm bút danh, là cây bút có tên từ thời nhà văn Chu Văn “trụ trì” làng Văn nghệ Nam Hà.

Lắng trong “Tiếng mõ cầu…” - 2

Nhà văn Trần Đắc Hiển Khánh

Năm 1987, phần vì hoàn cảnh gia đình, thêm phần muốn vào nơi bố mình đã trọn đời gắn bó, ông đưa vợ con vào lập nghiệp tại Sóc Trăng. Khi cơ ngơi tạm ổn, con cái học hành xong có công ăn việc làm, ông lại cầm bút viết truyện, viết tiểu thuyết, trở thành một trong những tác giả có tên tuổi và “ẵm” nhiều giải của văn học Đồng bằng sông Cửu Long: Giải Ba truyện thiếu nhi do Hội Nhà văn và tổ chức UNICEF Việt Nam tổ chức; Giải B cuộc thi Bút ký của tạp chí Nhà văn năm 2007; Giải Nhất cuộc thi Bút ký Đồng bằng sông Cửu Long tổ chức năm 2011; Giải Nhì (không có giải Nhất) cuộc thi Tiểu thuyết Đồng bằng sông Cửu Long năm 2012 và một số giải thưởng Văn chương khác.

Trở lại tập truyện Tiếng mõ cầu trong gió của Trần Đắc Hiển Khánh. Những truyện vừa phân tích, bàn luận là những truyện khá, truyện “đinh” của tập truyện. Đấy là những truyện ngắn vừa có ý tưởng sâu sắc, vừa được tác giả viết dụng công, lớp lang hấp dẫn. Tôi yêu thêm truyện Phận sen, vì đó là truyện “có văn”, câu chữ có sức lôi cuốn người đọc.

Có hai điều tôi ngẫm về cây bút đồng hương này. Thứ nhất, nhiều truyện ngắn của ông ôm chứa cả ý tưởng và nội dung của một tiểu thuyết. Cũng phải thôi, ông đã in một tiểu thuyết và được giải thưởng tiểu thuyết rồi. Có điều, phải cẩn thận, gom một vấn đề lớn, một cốt truyện phức tạp vào “cái áo” chật chội của truyện ngắn, nhiều khi mọi cái sẽ bị rơi vào sơ lược, lỏng lẻo.

Điều thứ hai, ông thu nạp và sử dụng ngôn từ đất phương Nam khá thành thục, khá nhuyễn, không có sự “ngô ngọng” . Đấy là điều đáng mừng. Ông đã và đang là một cây bút phương Nam thật sự rồi!

Phạm Ngọc Chiểu

Thấp thoáng Trúc Thông
Thấp thoáng Trúc Thông

Mấy chục năm công tác cùng cơ quan với nhà thơ Trúc Thông, gặp mặt khi mau khi thưa, ông vẫn cứ thấp thoáng đâu đó, gần...

Tin liên quan

Tin mới nhất

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về dự và chỉ đạo Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025-2030

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về dự và chỉ đạo Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025-2030

Sáng 15/10, tại Trung tâm Hội nghị 25B (phường Hạc Thành), Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa khai mạc trọng thể Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, nhiệm kỳ 2025-2030. Đồng chí Tổng Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Tô Lâm tặng lẵng hoa chúc mừng. Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ dự và chỉ đạo Đại hội. Về dự Đại hội có lãnh đạo, nguyên

Ông Trump nổi giận vì ảnh bìa Time, Nga cũng lên tiếng

Ông Trump nổi giận vì ảnh bìa Time, Nga cũng lên tiếng

Bức ảnh bìa của tạp chí Time về ông Trump, nhằm tôn vinh thỏa thuận hòa bình Gaza, lại trở thành tâm điểm tranh cãi. Không chỉ Tổng thống Mỹ tỏ ra giận dữ mà cả phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Nga cũng lên tiếng chỉ trích.

Từ “Con đường tương lai” đến phong trào khai sáng tri thức và hành động

Từ “Con đường tương lai” đến phong trào khai sáng tri thức và hành động

Chỉ trong chưa đầy một năm kể từ khi ra mắt, cuốn sách "Con đường tương lai" đã tái bản ba lần với tổng cộng hơn 9.000 bản sách giấy được phát hành chính thức và hàng chục nghìn bản điện tử được lan tỏa tới bạn đọc trên các nền tảng số. Đây là một hiện tượng hiếm thấy, đó không phải là con số đơn thuần về doanh số, mà là dấu hiệu của một sự thức tỉnh tinh thần.

11 đoàn nghệ thuật chèo chuyên nghiệp sẽ tham gia Liên hoan Chèo toàn quốc - 2025

11 đoàn nghệ thuật chèo chuyên nghiệp sẽ tham gia Liên hoan Chèo toàn quốc - 2025

Liên hoan Chèo toàn quốc - 2025 sẽ diễn ra từ ngày 20/10 đến 2/11/2025, tại Trung tâm Văn hóa - Triển lãm tỉnh Bắc Ninh. Đây là cơ hội để các nghệ sĩ, diễn viên, nhạc công, đạo diễn, họa sĩ, biên đạo… thể hiện tài năng, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm sáng tạo, đồng thời góp phần khẳng định vị thế của sân khấu chèo trong bức tranh chung của nghệ thuật biểu diễn Việt Nam thời kỳ hộ