Nhà văn sáng tạo ngôn từ: Trường hợp hai tác giả Trung Sĩ và Ma Văn Kháng

Người ta nói sáng tạo văn chương là có hàm ý cả sáng tạo ngôn từ, bởi ngôn từ là phương tiện trước tiên của nhà văn. Có một số nhà văn, ở những trường hợp, hoàn cảnh nhất định, còn xem ngôn từ là "mục đích đến" của họ nữa! Nhiều nhà văn, nhà thơ thầm lặng, bền bỉ trau dồi tiếng Việt, luôn luôn chú ý đến ngôn ngữ khi viết và họ đạt được những hiệu quả nghệ thuật đáng được khuyến khích, nêu gương. Tuy nhiên, người sáng tác ít khi tự nói về mình mà các nhà ngôn ngữ học và nhà văn cũng ít khi bàn sâu, bàn một cách chi tiết đến những trường hợp cụ thể.

Tại đây, chúng tôi nêu hai trường hợp sáng tạo ngôn ngữ văn xuôi là nhà văn Trung Sĩ và nhà văn Ma Văn Kháng.

1. Trường hợp Trung Sĩ với Chuyện lính Tây Nam (hồi ức), Nxb Thanh Niên, 2018

Nhà văn sáng tạo ngôn từ: Trường hợp hai tác giả Trung Sĩ và Ma Văn Kháng - 1

Cuốn sách "Chuyện lính Tây Nam"

Trước tiên xin dẫn ra hai đoạn văn có sức biểu cảm nhất định.  

“Em đứng dưới sân, xổ tóc ra trong chậu nước, từ từ chải thật kỹ. Sau cùng nước tráng em vắt nửa quả chấp vào chải tiếp. Nước quả chấp chua làm cho tóc mượt mềm. Em nắm suối tóc sát đầu ngay ngọn nguồn rồi quay vù vù như máy bay lên thẳng. Mái tóc nặng, vóc hình thôn nữ khỏe khoắn lắc dẻo như múa ba lê, phơi cái cổ thon thon tròn nõn chuối. Nước mát li ti, thơm bay lỏa tỏa khắp mặt sân kết cầu vồng trong nắng. Tưởng như có thể bay lên được vì tóc em dài lắm” (tr11).

Và một đoạn kể về người chiến sĩ sau nhiều tháng năm ở chiến trường, ngồi trên tàu hỏa vượt đèo Hải Vân ra bắc, vào một buổi sớm sương mù: “Có gì đó rất thân quen khẽ lướt qua khiến tôi rùng mình nhìn quanh. Thật dịu dàng lan tỏa, như đã đến từ hoài niệm sâu thẳm, tràn dâng xâm chiếm không gian và xúc cảm. Nhận ra rồi! Xin chào người, không khí quê hương Bắc Việt của tôi, gió mùa đông bắc của tôi. Cơn gió nao lòng nhớ trong những trưa chốt bờ đê khét nắng, những đêm lạnh tiếp cận luồn sâu rừng thẳm nay về đây vuốt mặt. Nâng cửa sổ lên hít một hơi thật đầy lồng ngực bầu không khí lạnh ban mai còn đẫm hương đêm” (tr182).

Xin dẫn ra cách dùng từ tượng thanh, từ tượng hình cùng những biện pháp nghệ thuật ngôn từ khác của tác giả này. 

Từ tượng hình 

“Mặc quần đùi thổng lổng (tr7) nói về trẻ em mới lớn. “Hai khẩu 15 ly bên kia đường nhảy lên cầng cẫng” (tr40). “Nước ruộng phùng phìu lạnh quanh lưng” (tr68). “Đầu con thú ngúc ngoắc theo kịp đi” (trên lưng người chiến sĩ), “máu vẫn nhễu ra ở mõm” (tr257). “Bọn cá măng mồm rỗng vếch ngược, láng nháng đảo qua đảo lại” (tr251). 

Từ tượng thanh 

“Khẩu đội đại liên tay trái ăn theo tằng tặc một tràng ngắn” (tr32). “Tiếng ếch nhái, côn trùng, tiếng rắn trườn hay tiếng chuột chạy bùm bũm” (tr35). “Những tiếng lọp phọp nhỏ xíu lẫn trong nhiều tiếng nổ khác” (tr37). “Một loạt AK bên kia bờ bắn sang loác đoác” (tr67). “Trong đám rễ chùm, cá quẫy sòng sõng” (tr71). “Tiếng hoét hoét đạn rơi hút gió” (tr90). “Tiếng anh Khanh trên đại đội chủ công sọt sẹt trong tổ hợp. Địch (…) vừa chạy vừa quay lại bắn léc chéc” (tr31). “Bỗng đâu toác toác loạt AK” (tr133). “Tiếng hổ kêu uôm uôm quanh phum” (tr136). “Cá trắng từng đàn lách phe phé” (tr142). “Bỗng nghe tiếng rít eo éo. Dưới chân thằng Hải một con rắn chưa từng thấy, bị đè chặt, đang gồng mình mổ côm cốp vào cổ giày” (tr250). 

Tả cảm giác. Tả âm thanh bằng hình ảnh 

“Nằm ngửa tựa hòn đá mồ côi, thấy nước mắt lùa cát chảy xoi xói dưới lưng thật buồn” (tr221). “Quả ngô rang, ké đầu ngựa chua nhan nhát” (tr201). “Ban đêm đụng người, nhím lớn lùi vô bụi rũ lông rù rù dọa nạt, như tiếng người ta đưa vật vào cánh quạt đang quay”.

Nhìn nhận không gian và thời gian trong nhau và cùng chuyển động với con người

“Rừng khộp lúc thưa lúc dày”. Câu văn cho thấy người lính vừa đi vừa nhìn quang cảnh rừng khộp. Đây không chỉ là không gian đứng yên (rừng thưa, dày ở một nơi cố định) mà là không gian thay đổi theo thời gian đối với người đang đi (lúc thưa lúc dày). 

Giọng hài hước, ý nhị 

“Rừng che bộ đội rừng vây quân thù. Thiên nhiên luôn luôn công bằng với tất cả hai bên, trừ các nhà thơ” (tr138). “Văn chương in vào đầu còn thuốc lá thì in vào phổi” (tr217).

Văn tả cảnh, tả người, nếu hay sẽ thôi miên người đọc ở những dòng trữ tình, tài hoa, lịch lãm, trí tuệ, ngôn từ rất gọn và đây đó có chất thơ đưa đẩy. Đối với tác giả đã dẫn ra trong bài viết này, không gian, cảnh sắc thiên nhiên, hoạt động của chim thú như cỏ hồn của con người. Giọng văn của ông vừa sắc gọn, chát chúa, lại vừa mềm mại, xao xác,  tinh tế, thoáng chút hài hước, ý nhị. Cuộc sống cho nhà văn ngôn từ, và đến lượt mình, tác giả trả lại một cách cao đẹp hơn về hình ảnh, âm thanh, sắc màu cùng xúc cảm nhiều vẻ cho cuộc đời.

2. Trường hợp Ma Văn Kháng với tập truyện ngắn Người khách kì dị (Nxb Phụ nữ, 2019)

Nhà văn Ma Văn Kháng, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, là một tên tuổi văn xuôi hiện đại Việt Nam sáng giá. Đã có nhiều bài báo, tiểu luận, công trình khoa học về tác phẩm và sự nghiệp văn chương của ông. Người ta cũng nói nhiều đến đóng góp về ngôn ngữ văn học của Ma Văn Kháng. Tại đây, chỉ xin bàn đến tập truyện nói trên.

Tập truyện lôi cuốn độc giả không chỉ ở cốt truyện, số phận cùng tâm lý nhân vật và cảnh tượng, sự việc mà còn ở cách kể với giọng điệu, lời ăn tiếng nói sát sạt đời thường, vừa đậm hồn quê dân tộc, vừa giúp độc giả cuốn vào nhịp sống hiện đại nhiều màu vẻ.

Dễ thấy ở đây cách dùng ngôn ngữ lạ và mới khi miêu tả cử chỉ, hành động; miêu tả dáng điệu, cảnh vật; miêu tả cảm giác, tâm hồn, tâm lý... Yếu tố dân gian cũng được nhà văn hết sức chú ý.

Nhà văn sáng tạo ngôn từ: Trường hợp hai tác giả Trung Sĩ và Ma Văn Kháng - 2

Cuốn sách "Người khách kì dị".

 Miêu tả cử chỉ, hành động 

- con chó lón nhón chạy theo (tr26)

- bỉ bai bóng gió xa xôi (tr73)

- chò chõ nhìn xuống (tr101)

- chưa để Thoan kịp nói, Phượng đã láu cháu (tr115)

- ton tón đi ra cửa… chân bước ton tón lấp chấp… cô vợ tông tênh đôi quang gánh (tr140)

- chị  chàng nức nưởi gọi chồng là trái tim của em ơi (tr140)

- vợ Đường nhỏ nhẻ nói (tr143)

- anh con cả dò dè nói (tr173)

- người đàn bà đưa tay gãi má rọt rẹt (226)

 Miêu tả dáng điệu, cảnh vật

- cái khuôn mặt lưỡi cày thuỗi ra (tr5) (gần gũi với thuồn thuỗn)

- lội nước oằng oẵng (tr87) (gần gũi với oàm oạp)

- xung đột, hậm hoặc, đối lập nhau (tr139) (gần gũi với hậm hực, hục hoặc)

- lũ chai lọ rếch ráo loại bỏ (tr141)

- ngọn gió chiều lạnh lẽo thổi xông xổng (tr145) (gần gũi với thông thống)

- một vùng đen ngòm hoăm hoẳm như âm ti địa ngục (tr153)

  Miêu tả cảm giác, tâm lý

- trên ngọn cây, rắn chạy nước leo lên quấn chặt thành búi nhuầy nhuầy (tr9) (gần gũi với nhầy nhụa)

- hồn mê bằn bặt (tr21)

- nó là con chó vàng, nhưng lông rất ngắn, mịn trơn truồi truội (tr26)

- oi ngột bó bít (tr84) (nói về tình trạng bức bối, nóng bức ngột ngạt)

- thời gian từng lúc từng lúc như rỗng rễnh từng giây (tr123)

- tiếng rao nghê nga mềm mại (tr136) (gần gũi với nghêu ngao)

- ngắm con sóng để tìm và đưa mình truồi theo chiều sóng đổ (tr155) (liên hệ đến trôi, trơn, trượt…)

Có những từ ít gặp khác: bo bo bom bỏm chỉ biết tính toán chi li (tr144). Cách diễn đạt này có thể nảy sinh từ lời nói hằng ngày quen thuộc “giữ bo bo” mà thành cụm từ láy này. Hoặc: đồng tiền tiếng thế cũng ngọ ngằn lắm (tr143) (từ này có thể do chữ ngặt nghèo mà ra).

Yếu tố dân gian

Chất dân gian thấm nhuốm vào mọi ngõ ngách của các chuyện kể  không chỉ ở những đơn vị ngôn ngữ rất ngắn gọn mà còn thể hiện ở cụm từ và câu. Ấy là thành ngữ, tục ngữ hoặc lời dân gian mang tính phương ngữ.

- Chết tiếng trống, sống miếng mầm (tr9)

- Chơi với người Kim Bái không mất dái cũng mất nhà. Chơi với người Vệ Đà không mất nhà cũng mất dái (tr136)

- Tối đâu là nhà, ngả đâu là giường (tr148)

- Rung trà cá nhảy, phạt cỏ đánh rắn (tr185)

Những câu nói dân gian ấy tuy không do tác giả sáng tạo hoàn toàn nhưng có được do trải nghiệm, góp nhặt từ quá trình tham gia vào đời sống người lao động ở các miền quê lấm láp ruộng đồng.

3. Kết luận

Xét cho cùng, hầu hết các nhà văn (và nhà báo...) chuyên nghiệp, khi cầm bút, dù cố ý hay vô tình, đều sáng tạo ngôn ngữ ở một mức độ, cách thức nhất định. Điều đáng nói nhất là tác giả cần có ý thức sáng tạo sâu sắc, niềm xúc cảm chủ động, chứ không vô tình, "ăn may". Đóng góp dĩ nhiên của nhà văn là dùng ngôn từ có sẵn một cách có nghệ thuật. Sau đó là sáng tạo từ vựng - ngôn từ mới mẻ của riêng mình. Từ vựng trong xã hội dần dần, lần lượt được chọn lọc để làm dạy dặn thêm Từ điển giải nghĩa, chính là sự đóng góp tập thể của nhân dân, trong đó có nhà văn - chứ không phải ai khác. Và, cũng chính nhà văn, họ là người làm nghệ thuật hóa những từ vựng đã sáng tạo ra.

Phạm Đình Ân

Tin liên quan

Tin mới nhất

Nhớ thời đầu nhập ngũ

Nhớ thời đầu nhập ngũ

Cách đây 61 năm, ngày 10/4/1963, tôi tạm biệt Phòng Kế toán Cửa hàng Than củi Lán Bè, Hải Phòng đi nghĩa vụ quân sự.

Bún chả - Vị thơm Hà thành trên bếp than hoa

Bún chả - Vị thơm Hà thành trên bếp than hoa

Bún Chả trở thành một trong những bản sắc của người Hà Nội nói riêng và ẩm thực Việt Nam nói chung, từ tốn, quen thuộc, phong vị nếu đã nếm qua thì nhắc đến lại thèm thuồng, quẩn quanh như một người bạn tri kỷ, một lần tựa trăm năm.