Trần Độ - Nhà văn, vị tướng

Ở tuổi thanh xuân, chúng tôi thường đọc tùy bút của Trần Độ và thấy như anh tiếp lửa vào mỗi chúng tôi, đọc tùy bút của anh mà lòng cứ muốn ra chiến trường. Đó là “Anh bộ đội và tuổi hai mươi”, đó là “Anh hùng và chân lý” (anh ký dưới bút danh Cửu Long). Những bài viết từ miền Nam máu lửa gửi ra cứ hừng hực, hừng hực lửa chiến đấu, càng đọc càng mê và quý trọng Trần Độ.

Năm 1968, tôi đi chiến trường Khe Sanh, một hôm bên chiến hào giữa đạn bom như vãi trấu, một chiếc máy bay bà già (loại cánh quạt L19) lượn rải truyền đơn, mấy tờ rơi vào chỗ chiến hào của chúng tôi. Tôi vươn tay lượm mấy tờ, đồng đội la lên: “Xé đi, đồ tâm lý chiến đọc làm gì?". Tôi lướt vội xem chúng nói gì, thì giật mình, một tin làm rúng động tim tôi: “Tướng Trần Độ đã chết”. Chúng đưa ảnh anh Trần Độ trong bộ bà ba đen nằm chết co quắp không rõ mặt và ghi rõ: Tướng Trần Độ chỉ huy trận tổng tiến công Tết Mậu Thân vào Sài Gòn và đã bị chúng tiêu diệt.

Trong chiến đấu, hy sinh là lẽ thường, nhưng tin này làm bồi hồi chúng tôi, những người lính trẻ tiếc thương một vị tướng tài đã có những bài văn làm rung động và đi vào lòng người. Khi về đến căn cứ hỏi ra mới biết là tin tâm lý chiến của địch. Anh vẫn sống và đang làm Phó Chính ủy quân giải phóng miền Nam.

Trần Độ - Nhà văn, vị tướng - 1

Trung tướng - nhà văn Trần Độ.

Khi rời chiến trường trở về đến Hà Nội, lúc đó tôi công tác ở Ban miền Nam (Ban CP40), tôi được biết tướng Trần Độ vẫn khỏe mạnh và vừa mới từ chiến trường về Hà Nội, ở khu đặc biệt Hồ Tây cùng với đồng chí Nguyễn Văn Linh - Bí thư Trung ương Cục và mới được gặp Bác Hồ. Hôm đó đồng chí Lê Toàn Thư - Thủ trưởng Ban miền Nam của chúng tôi lên thăm anh, tôi được tháp tùng. Gặp anh tôi thấy ở anh chất một tướng văn hơn là một tướng võ. Anh nhẹ nhàng, chân chất, giản dị. Tay luôn cầm điếu thuốc và hút liên tục. Tôi kể với anh chuyện chúng tôi được tin anh chết. Anh cười:

- Chúng nó không giết được chúng ta bằng súng đạn thì phải giết bằng truyền đơn thôi. 

Im lặng một giây, hút một hơi thuốc anh nói: 

- Với chúng ta, trong công tác tuyên truyền phải luôn tôn trọng sự thật, không có sự thật sẽ làm mất niềm tin của dân và sẽ phản tuyên truyền.

*

Khi đó đất nước đã thống nhất, tôi có dịp gặp lại anh, lúc này anh là ủy viên Hội đồng Nhà nước, Phó Chủ tịch Quốc hội và trước đó là Trưởng ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương. Khi đó tôi giúp việc cho Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, tôi thường gặp anh trong những lần anh đến thăm và làm việc với Luật sư Nguyễn Hữu Thọ.

Những cuộc trao đổi giữa anh với Luật sư lần nào cũng thú vị. Có lần Luật sư hỏi anh có quan tâm đến dân chủ không.Anh nói: “Dân chủ là mấu chốt của cách mạng, nhưng nhiều người hiểu dân chủ kiểu khác. Hai người tranh luận cuối cùng họ thống nhất: khi người dân được làm chủ thì xã hội mới văn minh, con người mới có hạnh phúc. Cụm từ dân chủ và người dân làm chủ được hai anh bàn qua, trao lại nhiều lần. Có lần sau khi làm việc xong, Trần Độ rủ tôi đi chụp ảnh. Anh cũng là người say mê nhiếp ảnh, máy ảnh luôn bên người. Chúng tôi thân nhau có lẽ một phần từ nguyên do mê nhiếp ảnh. Kể cả thư ký của anh, Nghiêm Hà cũng là nhà nhiếp ảnh. Và một điều thú vị nữa, anh là nhà văn, một cây tùy bút. Những bài tùy bút của anh đã chinh phục tôi từ tuổi thanh niên. Anh là hội viên vào lớp sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam nhưng không bao giờ anh coi mình là nhà văn. Anh nói rạch ròi với tôi: “Gọi mình là nhà văn nghe nó ngượng lắm, nhà văn thì phải dấn thân suốt đời. Mình chỉ thích viết theo tùy hứng, nói đúng ra là mê văn học, thích đọc và thích viết”. 

Sau này khi về hưu và khoảng chục năm cuối đời sức khỏe anh yếu, nhất là chân phải mổ, nhưng anh vẫn thích đi và viết. Tôi có điều kiện gần gũi anh hơn. Anh hay trao đổi và nhờ tôi, Nghiêm Hà, Đỗ Trọng Hội hỗ trợ để anh được đi lại giao du, thăm bạn bè chiến hữu. Có lần anh gọi tôi ra đưa anh vào Thành phố Hồ Chí Minh. Có lần anh đề nghị tôi giúp anh đi tìm người bạn cũ là lính ở chiến trường đã mất liên lạc, phải qua ba bốn người trung gian và mất cả ngày mới tìm ra. Họ gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Chúng tôi cũng vui lây với sự đoàn tụ đúng nghĩa của hai chữ đồng đội.

Chúng tôi đưa anh đi Long Hải, Vũng Tàu, đi miền Tây, đi Đà Lạt,… Những chuyến đi như vậy anh rất thân tình kể chuyện đời làm tướng cho tôi nghe mà anh vẫn gọi là chuyện đời lính. Trong các hồi ức đó tôi thích nhất là chuyện anh cùng tướng Lê Trọng Tấn là những người chỉ huy đầu tiên gặp tướng thua trận Đờ cát Tơ ri (De Castries) ngay sau khi ta chiếm hầm chỉ huy ở Điện Biên Phủ. Anh kể: “Anh em báo đã bắt được tướng Đờ Cát”. Cấp trên yêu cầu phải xác minh chính xác đúng Đờ Cát rồi mới báo cáo để công bố. Khi mở màn chiến dịch chúng tớ đã được Bộ Tổng đưa cho một tấm ảnh của Đờ Cát. Hôm gặp hắn, mình thấy hắn vẫn đội cái Ca lô đỏ mà đã có lần y khích tướng: Đội cái mũ đỏ này để Việt Minh nhận rõ mục tiêu. Mình nhìn cái mũ đỏ của nó mà thấy ghét, mình hỏi nó bằng tiếng Pháp “Anh có thể lấy cái mũ đỏ của anh ra được không?”. Mình muốn y bỏ mũ để dễ xác định với ảnh chân dung của hắn, nhưng cái ý sâu xa là mình muốn bảo nó hãy bỏ cái ý ngông nghênh của kẻ xâm lược đi. Y gật đầu bỏ vội ca lô đỏ ra. Mình và anh Tấn so y với tấm hình, dù có gầy đi nhưng là đúng. Kiểm tra một số yếu tố khác chúng tớ biết chắc chắn đã bắt được tướng Đờ Cát và toàn bộ Bộ Chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên. Tớ liền báo cáo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, để tuyên bố kết thúc trọn vẹn trận chiến đấu lịch sử Điện Biên Phủ".

Một chuyện thứ hai của anh cũng rất ấn tượng với tôi đó là chuyện đi B, đi chiến trường miền Nam. Anh không vượt Trường Sơn như chúng tôi. Thật ly kỳ, anh kể: Anh cùng tướng Hoàng Cầm bay sang Trung Quốc rồi đi bằng đường thuỷ như kiểu đường Hồ Chí Minh trên biển Đông. Như vậy là lênh đênh trên biển và qua 3 quốc gia, anh đã đi dọc chiều dài trên 3.000 cây số hình chữ S của tổ quốc Việt Nam và đi trên biển Đông. Để rồi sau đó từ Campuchia vào Tây Ninh trở thành Phó Chính ủy Quân giải phóng miền Nam. Chuyến đi gian khổ, ly kỳ, hai người phải đóng vai thợ máy và công nhân đốt lò trên một tàu buôn Trung Quốc. Tàu phải vượt qua sự bủa vây của Hạm đội 7 và sự tuần tra của hải quân ngụy Sài Gòn. Anh kể: “Vào tới đất miền Nam ta, cởi bỏ bộ quần áo nhà buôn Trung Quốc, bỏ cả giày dép, mặc bộ bà ba đen, quấn cái khăn rằn và cưỡi chiếc xe đạp không thắng, không chắn bùn đạp tanh tênh giữa rừng gộp nó ngồ ngộ và lâng lâng thế nào ấy”. Anh nói sẽ viết hồi ký… Sau ngày anh mất, tôi đọc trong hồi ký của anh có bài Trên đường đi B rất thú vị. Tôi trích một đoạn sau đây:

"Tháng 9 năm 1964, ở một Hội nghị Trung ương, đến giờ nghỉ giải lao, anh Nguyễn Chí Thanh kéo tôi ra sân, vỗ vai và bảo:

- Chuẩn bị đi B.

- Chuyến đi này có tớ (tức anh Thanh), có cậu, Tấn (Tướng Lê Trọng Tấn) và Cầm (Tướng Hoàng Cầm). Tớ đã chọn mấy tay này cùng đi với tớ.

Anh Thanh có dặn riêng tôi: "Cậu phải kiếm một máy ảnh thật tốt". Tôi liền vào Tổng cục Chính trị xin. Bấy giờ, ai đi B đều được ưu tiên hàng đầu nên các anh ở Cục Cán bộ lập tức cho lục kho, lấy và giao cho tôi chiếc máy ảnh Praktica. Thời đó, loại máy này oai lắm.

Còn phương thức đi như thế nào thì tôi cũng không được biết gì hơn là sẽ đi bằng phương thức đặc biệt và bằng con đường đặc biệt. Anh Thanh còn bảo, bốn người sẽ đi làm hai đợt. "Đi bằng phương thức đặc biệt có lẽ là đi bằng con đường hợp pháp, phải đi qua một số đô thị, qua Phnôm Pênh hay Sài Gòn gì đó?" - tôi nghĩ mà lo. Từ 15-16 tuổi đã thoát ly đi làm cách mạng, có tiếp xúc với xã hội nhưng vẫn thấy bản thân còn nhiều sự vụng về, kém cỏi. Tôi hy vọng được đi cùng đợt với anh Tấn, như bấy lâu nay vẫn sống và làm việc cùng anh. Anh lớn hơn tôi hàng chục tuổi, cũng đã vào đời lâu và có kinh nghiệm nhiều hơn tôi. Đùng một cái, vào khoảng tháng Mười thì có thông báo anh Thanh và anh Tấn đi trước. Thế là tôi mất chỗ để dựa. Còn lại tôi và anh Hoàng Cầm đi đợt sau.

Ăn Tết xong, vào một buổi tối, chúng tôi nhận được điện của Bộ Tổng Tham mưu: đúng 7 giờ sáng mai lên tập trung ở Bộ để đi. Chưa biết đi bằng cách nào, nhưng tôi vẫn chuẩn bị tư trang lên đường. Tôi bỏ hết đồ quân phục lại, mặc thường phục, tay xách chiếc vali nhỏ. Rồi lại phải giúp anh Hoàng Cầm chải chuốt cái đầu "cợp" của anh ấy cho dễ coi. Có lẽ lần đầu tiên anh ấy diện quần áo thành thị.

Lên tới Bộ, hỏi đi như thế nào thì họ bảo là ra sân bay. Tới đây thì tôi yên chí là đi máy bay, rồi có lẽ sẽ bay thẳng sang Phnôm Pênh. Ra tới nơi thì thấy đó là một chuyên cơ, loại máy bay thường, nhưng chỉ thấy hai chúng tôi đi. Các phi công bảo:

- Chúng tôi có nhiệm vụ đưa các đồng chí đến Quảng Châu.

"Sang Trung Quốc sao?" - tôi lại hoang mang không hiểu đường đi thế nào mà lại vòng sang Trung Quốc?

Đến Quảng Châu bạn đón tiếp niềm nở, đưa vào nhà khách ăn uống, nghỉ ngơi. Bấy giờ tôi mới biết tương đối rõ là đi bằng đường biển. Tôi và anh Hoàng Cầm sẽ xuống một tàu biển đi tới cảng Xi ha núc vin ở Tây Nam Campuchia. Trên tàu, chúng tôi đóng giả làm thuỷ thủ. Đó là loại tàu vận tải, chở hàng cho Campuchia. Chúng tôi lại chờ ở Quảng Châu khoảng một tuần lễ, ngày đi thăm thú cảnh vật địa phương, thăm Hoàng Hoa Cương, thăm mộ Phạm Hồng Thái, mộ 72 liệt sĩ, trèo núi, ngắm cảnh...

Hôm xuống tàu, họ dẫn chúng tôi vào phòng của thuỷ thủ, mỗi phòng chừng bốn đến năm mét vuanh, có kê hai chiếc giường một, cửa đóng im ỉm suốt ngày. Tàu nhổ neo. Vài ngày sau họ mới dẫn chúng tôi đi xem phần đầu và cuối con tàu. Trên boong tàu đặt mấy khẩu liên thanh phủ bạt kín. Chắc loại 12 ly 7. Họ nói:

- Tàu buôn thì không được mang vũ khí, nhưng lần này có nhiệm vụ chở chúng tôi, nên trang bị thêm, nhưng bất đắc dĩ mới dùng, còn thì phải phủ kín.

Tàu trọng tải ba ngàn tấn, chở hàng gì thì họ không nói. Năm ngày lênh đênh giữa trời biển, hai anh em ngồi đánh bài tú lơ khơ và nói chuyện vui với nhau. Ngày thứ năm thì tàu cập bến. Chúng tôi lại bận quần áo thường phục. Anh thuyền trưởng mời chúng tôi lên khoang chỉ huy ngồi, rồi đóng chặt cửa lại. Anh nói:

- Các đồng chí cứ ngồi đây, đừng ló ra ngoài, không để lộ gì cả.

- Chúng tôi được mời lên xe.

Xe lao đi, đến lúc đó, chúng tôi mới hiểu: danh nghĩa là cán bộ đại sứ Trung Quốc ra đón hàng, khi lên đến tàu, họ đánh tráo người của họ để đưa chúng tôi đi, còn người của họ thì lưu lại trên tàu. Là ô tô ngoại giao nên không sợ bị kiểm soát, lên xe ngồi là chúng tôi về thẳng Phnôm Pênh”.

Trần Độ có biệt tài viết tùy bút. Văn của anh giản dị, nói đúng ra là dung dị, gần gũi với người đọc, cũng rất hình ảnh, rất chi tiết, anh luôn hướng được người đọc về một mục đích tích cực: là yêu nước và cứu nước.

Anh thường nói với tôi: “Có người nói mình đa này đa nọ, nhưng mình chỉ có một chữ đa, là đa ý kiến”. Vì đa ý kiến nên mình thích viết. Tôi và Nghiêm Hà nhiều lần tranh luận những ý kiến của anh. Anh viết những điều anh nghĩ, có lẽ phải một thập niên sau hoặc dài hơn mới phù hợp. Có lần anh nghe chúng tôi, nhưng nhiều lần anh vẫn giữ ý mình, có chăng là điều chỉnh chút đỉnh. Anh là vị tướng, được phong Trung tướng từ 1974 nhưng anh vẫn đơn giản sống như thời lính. Sau giải phóng, căn phòng ở và làm việc của anh ở 97 Trần Hưng Đạo, anh để một nửa là những kệ sách kê sát nhau như một thư viện thu nhỏ và bên cạnh đó là chiếc võng Trường Sơn. Anh nằm võng và đọc sách. Thấy tôi nhìn thích thú góc sách ấy, anh cười: “Góc Trường Sơn của tớ đấy”. Anh vẫn bình dị. Có lần anh đọc cho tôi nghe hai câu thơ của Nguyễn Trọng Oánh:

“Anh ngơ ngác giữa cuộc đời thế mãi

Như trăng kia ngơ ngác giữa bầu trời”.

Và anh nói thêm: “Trong cơ chế thị trường này đúng là tớ ngơ ngác”. 

Đúng là anh rất ngơ ngác trước những cuộc sống bon chen chạy vạy và bị đồng tiền chen lấn thống trị. Biết vậy tôi và Nghiêm Hà nhất quyết hết lòng hỗ trợ anh, nhất là lúc anh ngã bệnh. Anh thường gọi tôi, có lúc bận chưa kịp đến bị anh hờn dỗi, và viết thư trách móc… Tôi vẫn bảo với Nghiêm Hà: “Cái gì làm được cho anh Độ chúng ta cố làm”. Một lần anh Độ hỏi tôi: “Ngôi nhà 97 Trần Hưng Đạo là nhà công vụ, nghe nói Chính phủ có chính sách bán hóa giá, vậy mình phải làm sao để mua hóa giá?”. Anh bảo tôi tìm hiểu, về sau anh giao cho tôi mang thư của anh đưa tận tay đồng chí Phan Văn Khải lúc đó là Phó Thủ tướng Thường trực và anh được giải quyết theo nguyện vọng. Thế là anh đã một lần vượt qua cái ngơ ngác đời thường.

Sau ngày anh mất, căn nhà được cất lại trang nghiêm, Nghiêm Hà và con trai thứ hai của anh, Trần Vinh Quang đã cùng một vài bạn hữu sưu tầm, tập hợp các tác phẩm của anh để xuất bản thành bộ “Trần Độ, tác phẩm”, dù là chưa tập hợp đủ hết, nhưng bộ sách đã dày đến 2.400 trang với 3 tập, rất đồ sộ. Trần Vinh Quang đã mang bộ sách có đóng dấu đỏ “Gia đình tác giả kính tặng” đến tặng tôi. Lần giở từng trang mới thấy sức viết của Trần Độ thật là to lớn. Có trên 1.000 trang là ký, tùy bút và truyện. Nhà thơ Hữu Thỉnh Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam trong lời giới thiệu bộ tác phẩm Trần Độ đã viết: "bạn đọc có thể hình dung diện mạo tinh thần của tác giả trong một thời gian dài, và trước những dấu mốc lịch sử của dân tộc", và "Biên độ tư duy rất rộng, đề tài phong phú, nhưng tựu trung có hai lĩnh vực được anh quan tâm nhất, đó là chiến tranh nhân dân với công tác chính trị, tư tưởng của quân đội và xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong đó có văn học nghệ thuật", "anh say sưa ca ngợi phẩm chất anh hùng, tình quân dân và tình đồng đội của anh bộ đội cụ hồ".

Bây giờ thì dù anh có tránh né thế nào thì hiển nhiên anh vẫn là lớp nhà văn lớn của đất nước, lớn về độ dày với thời gian, lớn về số nhiều của tác phẩm và lớn hơn là tư duy, suy nghĩ.

Đúng là trong văn của anh có võ, võ và văn của vị tướng./.

Trình Quang Phú

Tin liên quan

Tin mới nhất

Kết quả thi đấu tennis đơn nam Paris Masters 2025

Kết quả thi đấu tennis đơn nam Paris Masters 2025

(Tin thể thao, kết quả tennis) Tại Paris Masters 2025, những tên tuổi lớn như Sinner, Alcaraz và Zverev tạo nên loạt trận mãn nhãn trên mặt sân cứng trong nhà, khép lại mùa Masters 1000 bằng những kết quả kịch tính đến phút cuối.

Lịch thi đấu tennis đơn nam Paris Masters 2025

Lịch thi đấu tennis đơn nam Paris Masters 2025

(Tin thể thao, lịch thi đấu tennis) Giải Paris Masters 2025 diễn ra từ 25/10 đến 2/11 tại Paris La Defense Arena (Pháp), quy tụ dàn sao hàng đầu thế giới cho sự kiện Masters 1000 cuối mùa, trước khi bước vào ATP Finals.