Tưởng nhớ nhà văn Đỗ Kim Cuông đọc lại tiểu thuyết “Phòng tuyến sông Bồ”

Trong di sản hơn hai chục tác phẩm để lại, tiểu thuyết “Phòng tuyến sông Bồ” (NXB Văn học, 2009) là cuốn tiểu thuyết thứ 11 của Nhà văn Đỗ Kim Cuông. Sau “Phòng tuyến sông Bồ”, ông đã cho in các tiểu thuyết “Sau rừng là biển” (NXB Lao động, 2011), “Trang trại Hoa hồng” (NXB Hội Nhà văn, 2016) và “Những chiếc mặt nạ” (NXB Sân khấu, 2017). Tôi không có điều kiện đọc hết các tiểu thuyết của Đỗ Kim Cuông đã xuất bản, nhưng “Phòng tuyến sông Bồ” với thời gian “mang nặng đẻ đau” suốt từ 1975-2008, các nhân vật và sự kiện lại tương đồng - thậm chí có không ít chi tiết trùng khít với cuộc đời tác giả, nên có thể nói đây là tác phẩm mà tác giả đã dồn vào đó nhiều tâm huyết và công phu nhất.

Đỗ Kim Cuông quê Thái Bình, nhưng suốt thời kỳ chiến tranh ác liệt nhất (1968-1975), ông là lính chiến đấu trên đất Trị Thiên Huế. Đó là vốn sống, là nguồn cảm hứng để tác giả dựng nên rất nhiều tác phẩm, trong đó, có “Phòng tuyến sông Bồ” và “Trang trại Hoa hồng”. Trong khi “Phòng tuyến sông Bồ” tập trung ngòi bút vào số phận những người lính của “K10” - một tiểu đoàn chủ lực - từ lúc “bị” giải thể để tăng cường về xây dựng cơ sở ở các xã đã bị thiệt hại nặng sau chiến dịch Tết Mậu Thân (1968) cho đến khi đơn vị được “tái lập” sau Hiệp định Paris để “giữ đất giành dân” tiến tới chọc thủng “phòng tuyến sông Bồ” giải phóng Huế vào tháng 3/1975, thì “Trang trại Hoa hồng” mở rộng không gian và thời gian với một kết cấu đa chiều, tái hiện cuộc sống và chiến đấu cả trong và sau chiến tranh…

Tưởng nhớ nhà văn Đỗ Kim Cuông đọc lại tiểu thuyết “Phòng tuyến sông Bồ” - 1

Nhà văn Đỗ Kim Cuông.

Viết “Phòng tuyến sông Bồ”, với lợi thế là “người trong cuộc”, qua gần 500 trang sách, tác giả đã dựng lại cục diện chiến tranh vùng đất phía bắc Huế từ 1968-1975, trong đó có “lịch sử” của một tiểu đoàn quân chủ lực “K10”, với rất nhiều chi tiết, sự kiện cụ thể và sinh động. Độc giả khâm phục và xúc động trước hình ảnh những chiến sĩ hầu hết quê ở các tỉnh miền Bắc đã sát cánh cùng với cán bộ, du kích địa phương chịu đựng vô vàn gian khổ hy sinh, trong một cuộc chiến thường là không cân sức, giữ vững chí khí cách mạng, từ thế cuộc bị động, bất lợi sau “Tết Mậu Thân”, từng bước gây lại cơ sở, góp phần xứng đáng vào chiến thắng năm 1975.

Về một mặt nào đó, có thể nói đó là thành công của tác giả. Một tập ký sự lịch sử viết sinh động cũng có thể đạt được thành công như thế, nhưng “Phòng tuyến sông Bồ” là một tiểu thuyết và Đỗ Kim Cuông là một nhà tiểu thuyết đã có nhiều kinh nghiệm, nên bạn đọc và bản thân tác giả đều muốn tác phẩm không chỉ là bức tranh hiện thực của một vùng đất, một giai đoạn lịch sử.

Tưởng nhớ nhà văn Đỗ Kim Cuông đọc lại tiểu thuyết “Phòng tuyến sông Bồ” - 2

Tiểu thuyết “Phòng tuyến sông Bồ” (NXB Văn học, 2009) là cuốn tiểu thuyết thứ 11 của Nhà văn Đỗ Kim Cuông.

Trong cuốn “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản năm 2007), nhà văn Đỗ Kim Cuông đã tự bạch: 

“…Một độ lùi 30 năm đủ để cho nhà văn suy ngẫm một cách nghiêm túc nhất về hiện thực của đời sống, về chiến tranh cách mạng. Có những giá trị, chuẩn mực xã hội đã đổi thay. Cần có một cái nhìn mới, cách nghĩ mới về cuộc sống, con người để làm sao đưa đến cho bạn đọc những trang viết chân thực nhất về cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của dân tộc, về cuộc sống và con người Việt Nam với bao niềm vui, nỗi buồn, hy vọng trong biến thiên của lịch sử. Chúng ta không có quyền “thi vị hoá” cuộc sống nhưng cũng không được “bạc bẽo” với nó”.

Quả là với “Phòng tuyến sông Bồ”, tác giả đã phần nào thể hiện “cách nhìn mới, cách nghĩ mới” về chiến tranh, về con người Việt Nam trong chiến tranh. Dễ thấy hơn cả là tác giả đã tránh được sự ấu trĩ và đơn giản một thời (ví như cái quan niệm “đã là ta thì nhất thiết phải thắng, phải tốt đẹp; còn địch thì chỉ có xấu xa độc ác và thất bại”…); “Phòng tuyến sông Bồ” có không ít trang miêu tả những trận đánh thất bại, sự khốc liệt và hy sinh to lớn trong chiến đấu. 

“…Hai mươi chín ngôi mộ của tiểu đoàn 10 đã được chôn cất chu đáo trong một vạt dương sát bìa làng. Tất cả những người lính hy sinh được bọc kín trong những tấm tăng và chôn sâu dưới lòng cát Phong Điền. Không bia bảng, không cả một chút hương trầm…” 

“…Ngoài khoảng sân trải nắng, xác những người lính giải phóng hy sinh nằm xếp một hàng ngang. Không một manh chiếu phủ mặt… Chắc chắn đây là những người lính trinh sát của trung đoàn và của đại đội 2 cùng bị trúng mìn với anh lúc mật tập vào căn cứ…”

Chỉ trong khoảng chưa đầy 20 trang (từ trang 247 đến trang 264), đã có 2 đoạn văn như thế!

Đỗ Kim Cuông cũng không né tránh việc phơi bày mặt trái và sự tha hoá của một số cán bộ chỉ huy - như đại đội phó Tam, chống lệnh “giải thể K10” chỉ vì “muốn giữ mạng sống cho ba đứa con”, “không dại gì đâm đầu vào chỗ chết… ở dưới giáp ranh”, cam phận về đội sản xuất trong rừng để giữ được “cái gáo” của mình; như Thoan, Đội trưởng vận tải, một kẻ ham hưởng lạc và vì đố kỵ, đã gài bẫy hãm hại Phong - một cán bộ từng lập được nhiều chiến công…

Như vậy là tác giả đã không “thi vị hoá” cuộc sống và với “cách nghĩ mới”, chúng ta hiểu rằng những “điểm đen” vừa kể không những không làm nhoà mờ bức tranh thể hiện cuộc chiến đấu anh hùng của quân và dân mặt trận phía Bắc Huế mà còn làm sáng thêm những tấm gương đẹp trong chiến tranh như Cường, Phong, cô Hạnh (bí thư xã)… Quả là chỉ những người anh hùng chân chính, gan vàng dạ sắt với tình yêu Tổ quốc, Nhân dân và đồng đội thấm vào máu thịt (chứ không phải là những tuyên bố hùng hồn đầu lưỡi) mới đủ bản lĩnh, vượt lên những thất bại tạm thời, chịu đựng hy sinh gian khổ lâu dài, kiên trì đi tới thắng lợi cuối cùng.

Cũng với “cách nghĩ mới”, tác giả đã để cho ông Một - trung đoàn trưởng, tới thăm mộ “con Lý” - một “con điệp” vừa bị Phong bắn chết, và ông đã bảo lính “làm cho nó một tấm bia… Nó có hư hỏng, thối tha cũng là một con người”. Có thể, trước đây, cách biểu lộ tình cảm của “ông Một” sẽ bị phê phán là “mất lập trường”, nhẹ nhàng hơn thì cũng bị đánh giá là “tình cảm tiểu tư sản”, nhưng nay thì chúng ta hiểu tấm lòng của vị chỉ huy, nhất là khi ông đã phải thốt lên một cách đau xót: “Tội nghiệp cụ phó cối làng Mai, nuôi con không nên người. Cụ cũng đã từng là cơ sở cách mạng của ta từ thời chống Pháp… Cha hổ sinh ra con chó… Nó không nên người cũng còn là lỗi tại ta… Tại ta tụi bay ơi!”.

Chỉ tiếc là tác giả đã bỏ qua, không đi sâu hơn vào gia đình có số phận trớ trêu, đầy bi kịch ấy mà ở một đất nước chia cắt 30 năm, rồi cuộc chiến “cài răng lược” diễn ra trên nhiều vùng đất, đó không phải là hoàn cảnh cá biệt. Và khi đó, một nhân vật như Lý, nếu như tác giả không vội “kết án” tử hình, sẽ tạo thêm được các tình huống đi sâu hơn vào những vấn đề của cuộc chiến và hậu chiến.

Một vấn đề của cuộc chiến - một giai đoạn khá đặc biệt còn ít tác phẩm đề cập một cách sâu sắc đã được tác giả “Phòng tuyến sông Bồ” dành khá nhiều trang: đó là khi Mỹ phải rút quân theo Hiệp định Paris, còn lại những người lính Việt Nam ở hai bên chiến tuyến, dù lập “chốt” canh chừng nhau nhưng với tinh thần “hòa hợp dân tộc”, họ đã có những buổi trò chuyện trong “căn nhà hoà hợp” hay chung vui trên một sân bóng… và chung cả hoạn nạn khi bất thần quả mìn gài trước đây bị chạm nổ hay lúc Cồn Nổi (nơi hai bên cùng có “chốt” chiếm giữ) bị nhận chìm trong lũ dữ.

Lại tiếc cho tác giả đã không khai thác kỹ những tình huống có thể gợi nghĩ đến những vấn đề có tính nhân bản sâu sắc. Cả một vài vấn đề hậu chiến gợi ra qua những thoáng suy nghĩ của nhân vật “tôi” - tác giả (lần đầu xuất hiện) cùng với Cường (có thể là tác giả “hoá thân”) sau chiến tranh khi đã trở về Huế, đến với giảng đường đại học cũng chưa đủ “độ” để tạo nên ấn tượng cho độc giả và tăng thêm sức nặng về tư tưởng cho tác phẩm.

Do kỳ vọng nhiều ở tác giả và một tác phẩm về chiến tranh có “độ lùi” hơn 30 năm, chúng ta cảm thấy “tiếc” cho tác giả chỗ này chỗ kia, chỉ mới “chạm” đến “vỉa quặng” chứ chưa “bóc tách” đủ các phía, đưa nó lên phân tích để thấy hết bản chất của sự vật. Với một tác phẩm “mang nặng đẻ đau” sau hơn ba chục năm thai nghén, hẳn là tác giả cũng đã cân nhắc lắm về nhiều mặt, trong đó có vấn đề “điểm nhìn”, một thuật ngữ giới phê bình hiện nay hay sử dụng - những đoạn trích nhật ký của Hạnh, của Cường hay nhân vật “tôi” xuất hiện sau chiến tranh chứng tỏ Đỗ Kim Cuông không chỉ cố gắng thể hiện “cách nhìn mới” mà còn muốn dựng một tiểu thuyết có cái nhìn đa chiều. Nhưng có thể vì “kẹt” đâu đó nên tác giả chưa thể “đào xới” mạnh bạo hơn, hoặc chưa đủ điều kiện (ví như chưa tìm hiểu kỹ “đối phương” - một cuộc chiến mà chỉ miêu tả “lệch” một phía thì dù cố gắng mấy cũng khó có được những “trang viết chân thực nhất” và đặt ra được những vấn đề cơ bản của nó).

Cũng có thể đó là những đòi hỏi ngoài chủ ý của “Phòng tuyến sông Bồ?” Có thể như thế lắm vì trong đoạn kết tác phẩm có một câu mượn từ tiểu thuyết “Con đường đau khổ” của nhà văn Nga Xô Viết A.Tônxtôi: “Những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét… Chỉ còn lại mối tình em trong trắng dịu dàng và rất đỗi yêu thương…”.

Nếu chỉ bàn về tình yêu thì có thể nói “Phòng tuyến sông Bồ” đã khá thành công với mối tình đẹp đẽ mà cũng đầy bi kịch giữa Hạnh và Cường. Có điều cả hai đều đã hy sinh: thật xót xa là Hạnh bị địch “phơi xác ngoài đình” khi giặc Mỹ đã phải tháo chạy còn Cường cùng “mấy chục người lính đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ một pháo đài biên giới”! Xót xa vì TÌNH YÊU và CÁI ĐẸP bị chiến tranh huỷ diệt đến nỗi tác giả đã phải lấy “tiếng chuông chùa đổ nhịp chậm rãi” kết thúc tác phẩm, may chi làm dịu nỗi đau…

Nguyễn Khắc Phê

Tin liên quan

Tin mới nhất

Trắc nghiệm: Chọn một chiếc váy cưới bạn thích nhất để nhận thông điệp thú vị về chuyện bầu bí

Trắc nghiệm: Chọn một chiếc váy cưới bạn thích nhất để nhận thông điệp thú vị về chuyện bầu bí

Mỗi cô gái đều có hình dung riêng về chiếc váy cưới trong mơ của mình. Màu sắc bạn chọn không chỉ thể hiện phong cách mà đôi khi còn “hé mở” những tín hiệu thú vị về chuyện bầu bí và hành trình làm mẹ trong tương lai. Hãy lắng nghe trực giác của trái tim - chiếc váy nào khiến bạn rung động nhất?