Một vài ký ức về nhà văn Kiều Vượng
Năm 1995, khi mới chuyển về thành phố Thanh Hóa dạy học, tôi được bạn bè giới thiệu mua căn nhà ở mảnh đất trũng ven đê sông Hạc, phường Trường Thi, thành phố Thanh Hóa bên cạnh mương nước sủi bọt đen ngầu, xung quanh có mấy nhà dân thưa thớt. Giá mảnh đất cùng căn nhà lúc đó bằng một cái xe máy Babeta rách.
Gọi là nhà nhưng thực là một gian cấp 4 đã hết “đát”, cột kèo xiêu vẹo, tường lở loét, mái võng như hông trâu gầy, nhiều lỗ hổng nhìn như sao sa. Một hôm trời mưa, tôi đang cố tìm cách đưa hai đứa con đi lớp mẫu giáo phải qua đoạn ngõ nước chảy xiết ngập đến hông. Lúng túng, bố con chưa qua được, chưa biết tính sao thì có một ông cao tuổi dáng quắc thước, cao lớn, tóc dài nhà bên cạnh mang cái chậu nhựa xanh to để trước mặt tôi. Ông bảo: “Chú thấp, cho hai cháu ngồi vào đây đưa qua dễ hơn”. Tôi nghe ông, liền bế hai đứa ngồi vào cái chậu nhựa đẩy qua vùng nước xiết đầy rác lên đê.
Có cái chậu đưa đón con rất tiện, mấy hôm sau nước rút, tôi mang cái chậu sang nhà trả ông và cảm ơn ông. Ông bảo: “Cô chú cứ giữ lấy mà đưa đón bọn trẻ, ngập lụt ở đây còn nhiều. Nhà chú làm đã lâu kèo cột mục rồi, phải lo thêm mấy cây luồng chống nữa đấy”.
Tôi nhờ thợ làm theo lời ông, hỏi ra mới biết đó là nhà văn Kiều Vượng, và anh em quý nhau từ đó. Ông đi công tác về, hay ai cho quà bánh ông thường cho ba đứa nhỏ nhà tôi. Ông đi Quảng Bình còn mua về cho các bà hàng xóm và vợ tôi mỗi người một cái nón lá rất đẹp. Ông yêu thiên nhiên, thích nuôi cá, nuôi chim và trồng cây cảnh. Thú chơi này ông không chỉ có ở nhà riêng mà ông còn sắm sanh, chăm chút suốt mấy chục năm cho công sở nơi ông làm Trưởng Văn phòng Báo Văn nghệ vùng Bắc Trung bộ. Có con cá, con chim nào đẹp hót hay, cây nào nở hoa chín quả là ông lại gọi tôi sang khoe, mặt ông bình thản nhưng mắt ông những lúc đó không giấu nổi niềm vui xa xăm rất lạ, anh em lại làm chén trà li rượu.

Nhà văn Kiều Vượng (1944 – 2018).
Ông là người không nghiện rượu chè nhưng thích nấu nướng và rất sành ăn uống. Mỗi lần ông đi công tác về, có món gì ngon là ông gọi tôi sang ngay, nên tôi cũng thường được thưởng thức những món đặc sản của các vùng miền. Lần tôi nhớ nhất là năm 1998, ông đi thực tế Nông Cống mùa lũ lụt. Hôm đó bạn thời thanh niên xung phong của ông đánh bắt được rất nhiều lươn cho ông. Tối khuya ông điện cho tôi: “Hữu ơi, sáng mai có món cháo lươn quê chú, tự tay anh nấu chú nhớ sang văn phòng ăn với anh rồi đi làm nhé!”.
Tôi biết ông có lịch trình hàng ngày: dậy từ hai giờ sáng ngồi vào bàn viết đến năm giờ, rồi ông đi bộ một tiếng, tắm rửa xong là ăn sáng. Tối đó tôi cứ mong sáng để đi ăn cháo lươn ông nấu. Vì nồi cháo chắc đêm nay ông phải ngồi vào bàn viết sớm hơn. Sáng dậy tôi đi từ xa đã nghe mùi thơm nức mũi món cháo lươn của ông, nước miếng trong miệng cứ tứa ra. Hôm đó ông nấu một xoong rất to, không chỉ tôi được ăn mà ông gọi tất cả anh chị em, từ lái xe, nhân viên, cho đến phóng viên ở văn phòng báo cùng về ăn. Không khí thật đầm ấm, mọi người tấm tắc khen món cháo lươn sở trường bếp núc của ông Vượng trong âm thanh sì sụp. Hất ngược mái tóc, tay múc thêm cháo vào bát cho anh em, ông nói đùa: “Lần này cháo ngon vì lươn Nông Cống rúc nhiều bùn lầy hơn nơi khác, bay ngửi đầu thằng Hữu ra thành phố ba năm rồi còn mùi bùn đấy thôi!”. Tôi lúc đó giật mình, đúng! Sống bên mương nước chắc có mùi...
Ông là người sạch sẽ, ngăn nắp, ham đọc, trí nhớ tốt luôn lưu giữ những tinh túy của quá khứ nhưng rất hảo tâm. Tủ sách báo của ông nhiều khủng khiếp, khó kể hết. Riêng báo Văn Nghệ, Văn Nghệ trẻ ông dành một tủ lớn lưu ngăn nắp thứ tự mấy chục năm không thiếu một số nào. Tôi mô tê về văn chương nhưng cũng thích đọc, nên hay sang mó tủ sách báo của ông. Ông bảo: “Chú thích đọc chi thì cứ lấy, nhưng đọc xong đặt vô chỗ cũ cho anh”. Ông biết tôi có đọc, nên tác phẩm mới của ông và số báo Văn Nghệ nào ra ông cũng mang về cho tôi. Nhiều bạn nhà văn cần đọc, hoặc cần tra cứu ông đều giúp. Ông Lê Quang Sinh - Phó Giám đốc thường trực Bảo tàng Văn học Việt Nam xin tủ báo Văn Nghệ, Văn Nghệ trẻ của ông làm tư liệu lưu trữ cho Bảo tàng Văn học, ông cho ngay.
Cả nhà tôi chỉ có một suất lương của tôi, mấy ông lãnh đạo cơ quan tôi và cả ông cứ bảo tôi, xem có việc chi cho vợ làm thêm lấy tiền nuôi con chứ chú? Tôi nói đùa, vợ tôi có làm lãnh đạo mới đủ tiền nuôi chồng con các ông ạ! Nhưng rồi vợ chồng tôi cũng bàn tính phải làm quán cháo, quán nước gì đó để nuôi ba đứa. Tám năm sau khi về thành phố tôi mới nói với ông: “Vợ em đang xin thuê mảnh đất bên đường, đầu huyện Quảng Xương giáp thành phố mở quán, nhưng khó khăn ở huyện quá anh ạ”. Ông nói ngay: “Thế để tao nói với thằng chủ tịch huyện”. Chiều hôm đó ông xuống huyện ngay, lãnh đạo huyện đồng ý. Nhưng xong huyện thì xã, thôn, rồi cả tỉnh, gỡ như gỡ búi bòng bong. Mỗi lần gặp, ông đều hỏi: “Việc thuê đất mở quán đến mô rồi, đã xong chưa em?”. Và 5 năm sau mới thuê được.
Ông tin nhân quả. Ông là người có thế giới tâm linh sâu sắc, luôn chu đáo tỉ mỉ trong mọi công việc. Hôm rằm tôi sang nhà ông mải ngắm cá, ông bảo với cô con gái nhưng cũng là nhắc tôi vì ông biết việc hương khói tôi hơi vụng: “Con thắp hương xong rồi đưa đồ lễ xuống, nhớ đưa cả hoa, đổ nước và rửa lọ đi nhé, đừng để quên hoa trên bàn thờ lâu nó héo rũ...”. Ngoài tư gia, ông còn lập bàn thờ Phật ở khuôn viên của cơ quan, sáng mỗi ngày hoặc trước khi đi công tác ông thường thắp hương rất chu đáo.
Ông là người có nhiều ý kiến đóng góp cho tỉnh Thanh Hóa ở nhiều lĩnh vực, nhưng ông là người đầu tiên đề xuất quy hoạch xây dựng thành phố Thanh Hóa hai bên bờ sông Mã. Ông nói với tôi, xây dựng như thế mới hợp phong thủy, Thanh Hóa mới đẹp và bền... Ông là người qua văn chương cũng như cuộc sống luôn khát khao cháy bỏng cho đất nước giàu mạnh, mọi người quanh ông hạnh phúc đủ đầy. Ông luôn trung thực thẳng thắn, trách nhiệm trong văn chương cũng như trong cuộc sống.
Một hôm tình cờ lục trong máy tính, tôi thấy câu chuyện đầu tiên mình viết gần mười năm ngày còn công tác ở miền núi đã quên từ khi nào, đọc lại thấy ngồ ngộ, tôi liền in ra gửi ông đọc. Hôm sau ông gọi tôi sang. Ông đưa tôi tập giấy A4 hôm qua. Nhìn qua, tôi thấy ông chữa đỏ rực các trang. Ông nói: “Chú có thể viết được, một số từ và câu cú dân toán chú viết chưa chuẩn anh sửa cho chú, riêng tình tiết kiểm lâm và công an lùng bắt bọn lâm tặc trong rừng thì chú cho cảnh tượng vây ráp, bắn nhau, bom mìn nổ đùng đoàng ác liệt như đánh trận thời chiến vào…”. Tôi cảm phục ông bận việc thế mà vẫn chỉnh sửa tỉ mỉ ngay cho tôi từ dấu chấm, dấu phẩy câu chuyện gần chục trang. Từ khi ông chỉ bảo tôi đã mạnh dạn mon men vào viết.
Năm 2016, ông nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, ông rất vui, hôm đó ông điện cho tôi bảo với vợ nấu phở để ông và anh em văn phòng xuống cùng ăn rồi đi công tác Nghi Sơn, nhìn ông lúc đó như trẻ ra. Tôi cứ băn khoăn không biết cuộc đời ông đã trải qua gian truân, đắng cay chua chát thế nào để sinh ra hàng vạn trang viết bão giông… Như định mệnh, năm sau ông lâm bệnh rồi yếu dần. Khi in xong tuyển tập Kiều Vượng một đời văn ông gọi tôi sang. Nhận tuyển tập hơn 3 ngàn trang từ tay ông ngồi trên xe lăn mà nước mắt tôi cứ trào ra… Sống gần ông, tôi thấy ông không bị lệ thuộc vào ham muốn nào. Tôi chỉ thấy ông bị ràng buộc bởi quan điểm: “Nhà văn sinh ra là để chống lại mọi thứ cường quyền hắc ám, đặng giảm bớt nỗi khổ đau của con người”. Hơn 30 ngàn trang các tác phẩm của ông thể hiện quan điểm đó.
Trước và sau khi ông mất, nhiều cuộc hội thảo, hàng chục công trình nghiên cứu khoa học, hàng trăm bài báo viết về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của nhà văn Kiều Vượng, với 6 tiểu thuyết, 5 tập truyện ngắn, 6 tập bút ký, 3 tập thơ, 1 kịch bản phim, 1 phóng sự đều khẳng định ông là nhà văn: của xứ Thanh, của thanh niên xung phong, của những cung đường, của biển và của những dòng sông… Những tác phẩm văn học của nhà văn Kiều Vượng là vỉa quặng không giới hạn về tư tưởng tình cảm và nghệ thuật ngôn từ, là nguồn cảm hứng không biên giới cho các thế hệ người đọc, cho các nhà nghiên cứu…
Còn tôi, thật thà mà nói, phần nhiều tác phẩm ông viết tôi đã được đọc, nhưng do kiến thức cạn, vốn sống ít không thể hiểu hết được sự nghiệp văn chương đồ sộ và hiểu hết được con người hào sảng, cương nghị đầy trách nhiệm, nhưng đa cảm và giàu lòng trắc ẩn của ông. Được sống gần ông gần một phần tư thế kỷ, khi ông đi xa - một cây cổ thụ ngã xuống, một cảm giác mất mát khó tả, phố phường và lòng mình trống vắng. Mỗi khi nhớ đến ông, là nhớ ngay bóng dáng cương nghị nhưng thanh thản ung dung tự tại, là nhớ ánh mắt luôn mỉm cười như khích lệ. Khi đọc lại những trang viết của ông, thấy mình như được xích lại gần ông, tự tin vì có thêm hơi ấm.

Tôi biết Trịnh Minh Hiếu có lẽ cũng sấp xỉ hai mươi năm, quãng thời gian đủ để hiểu một đường văn. Trong hai năm liên...
Bình luận