Phát hiện mới về cây trà tước thiệt tại chùa Tĩnh Lự và một số định hướng bảo tồn, phát triển
Là một loại danh trà và là một thảo dược quý, nhưng các nghiên cứu đều cho rằng, trà Tước thiệt đã thất truyền từ lâu.
1. Trà trong đời sống và văn hóa Việt Nam
Trong “Đất lề quê thói”, Nhất Thanh viết: “Người mình bất đắc dĩ lắm mới uống nước lã” (1), mà thường uống nước thảo mộc nào đó. Trong các thức uống mà người Việt hay dùng, trà (hay chè) (2) là một trong những thứ phổ biến nhất, trong mọi tầng lớp xã hội, từ thành thị đến nông thôn, từ quan trường đến đại chúng. Người Việt có câu: “Quan môn thất kiện sự, sài, mễ, du, diêm, tương, thố, trà”; nghĩa là trong nhà lúc nào cũng phải có 7 thứ là: củi, gạo, dầu, muối, tương, giấm, trà. Nhất Thanh cho rằng, người Việt “có trà thơm uống đã hơn một ngàn năm rồi... Trải qua bao nhiêu đời ta vẫn uống trà” (3).
Đại Đức trụ trì mới khách thưởng trà.
Do có thói quen uống trà phổ biến và văn hóa trà khá đặc sắc, cho nên người Việt cũng có nhiều loại danh trà, tức trà nổi tiếng. Về việc “xếp hạng” danh trà Việt thì cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, nước ta có “tứ đại danh trà”, tức bốn loại trà rất nổi tiếng, bao gồm: Mạn hảo, Hồng mai, Tước thiệt, Liên tử (ướp sen) (4). Có ý kiến cho rằng, Trung Hoa có “thập đại danh trà”, tức 10 loại trà nổi tiếng, thì đất Việt cũng có “thập đại danh trà”, bao gồm: Trà shan tuyết (Tây Bắc), trà Tân Cương Thái Nguyên, trà Mạn Hảo, trà Bạng (Thanh Hóa), Trà đâm Nghệ An, Trà tước thiệt, Cam khổ ngự trà, trà Phú Hội, trà Ô Long, trà Nhất Thiên (5). Tác giả Trịnh Quang Dũng trong cuốn “Văn minh trà Việt” (Nxb. Phụ Nữ, 2012) nói về 5 loại trà nổi tiếng của Việt Nam nhưng đã thất truyền, gồm: Trà Tước thiệt, trà Hồng Mai, Mạc trà, Ngự trà cam khổ, trà Mạn Hảo.
Người Việt uống trà không chỉ đơn giản là giải khát, mà trước tiên, xuất phát từ những lợi ích mà trà mang lại cho sức khỏe con người. Hiện nay, các nhà khoa học đã chứng minh được trà xanh là kho tàng của các hoạt chất sinh học như EGCG, Caffeine, Theanine,… giúp cho người uống trà có được đầu óc tỉnh táo, tâm trí sáng suốt, có lợi cho hô hấp, tim mạch, có khả năng ức chế, ngằn ngừa sự phát triển tế bào ung thư.
Ngoài giá trị về thể chất, tinh thần, việc uống trà còn mang ý nghĩa nhân sinh. Uống trà không chỉ là thói quen “Ăn xong uống một chén trà”, mà còn là một truyền thống, một nét văn hóa, một hình tượng thể hiện cho những giá trị tốt đẹp, những tình cảm nồng ấm. Ca dao Việt Nam có câu: “Chè ngon, nước chát xin mời/Nước non non nước, nghĩa người chớ quên”.
Đặc biệt, ở chốn thiền môn, ta lại cảm nhận rõ ràng và sâu sắc hơn về thiền trà - một nét văn hoá ấn tượng của nhà Phật. Các nền văn hóa trà lớn trên thế giới đều bắt nguồn từ các thiền sư. Văn hóa trà Trung Quốc gằn liền với Bồ Đề Đạt Ma. Tương truyền, có một lần, trong khi đang ngồi thiền, Tổ Bồ Đề Đạt Ma bỗng ngủ gục. Ngài liền cắt mí mắt cho tỉnh ngủ. Mí mắt ấy rơi xuống đất và mọc lên thành cây được gọi là trà. Lá của cây ấy có tác dụng chống buồn ngủ, làm cho tinh thần tỉnh táo. Từ đó những người ngồi thiền thường hái lá trà uống để được tỉnh táo khi ngồi thiền. Ở Nhật Bản, thiền sư Eisai (1141 - 1215), sau khi sang tu tập và tiếp xúc văn hoá trà Trung Quốc, đã phát triển ra một thứ nghệ thuật uống trà kết hợp với Đạo, Thiền, sau hình thành nên văn hóa Trà đạo. Ở Việt Nam, thiền sư Tuệ Tĩnh (1330 - 1400) - thánh tổ ngành Dược, được coi là ông tổ của trà Việt Nam (6).
Qua thời gian, hình thức uống trà đã được các thiền sư đưa vào nếp sống ở một số ngôi chùa với những buổi tọa đàm vừa uống trà, vừa luận đạo, chia sẻ Phật pháp; từ đó dần hình thành khái niệm thiền trà, nghĩa là uống trà với tâm thái của người thiền. Có lẽ, văn hóa thiền trà trong Phật giáo cũng xuất phát từ chính tác dụng của trà: giúp con người tỉnh táo. Khi uống trà lòng phải tỉnh, tinh thần phải thư thái, từ từ cảm nhận hương vị của chén trà để đưa lòng mình hòa vào cái tĩnh lặng, bình yên của vũ trụ bao la. Thiền và trà đều chung một mục đích, đó là tìm đến sự thăng hoa, thuần khiết và nhất là sự tỉnh thức của tâm hồn.
2. Trà Tước thiệt - một danh trà thất truyền
Có ý kiến cho rằng, thực ra, “tước thiệt” là danh từ chung trong giới trà chỉ búp chè đã hé ở cấp thứ 3 như hình lưỡi chim sẻ (7). Ở đây, tôi đồng tình với một ý kiến khác rằng: “Tước thiệt” là tên riêng chỉ một loại trà quý của người Việt, nổi tiếng trong lịch sử, được ghi chép trong nhiều tài liệu kim, cổ.
Đặc tả là trà Tước Thiệt.
Theo nhà nghiên cứu Trần Quang Đức trong cuốn “Chuyện Trà lịch sử một thức uống lâu đời của người Việt”, Thiền sư Tuệ Tĩnh (1330 - 1400) - thánh tổ ngành Dược và trà Việt Nam, là người đầu tiên nhắc đến loại trà này; bằng chữ Nôm, thiền sư nhận định: “Chè lưỡi sẽ là Tước Thiệt hảo trà” (8). Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi (1380 - 1442) cũng ghi nhận rằng trà Tước thiệt là một loại danh trà rất thơm ngon. Trong tác phẩm “An Nam Vũ Cống” (Dư địa chí), Nguyễn Trãi viết: “Tước Thiệt trà cánh nhỏ mà cong như lưỡi con chim sẻ là một trong vài loại trà nổi danh kim cổ”; “Chè lưỡi chim sẻ hay thường gọi là chè tước thiệt. Khi đọt trà mới chỉ nhú như lưỡi chim sẻ (tước thiệt) được thu hoạch rồi sao mà thành” (9). Ông cho hậu thế biết châu Sa Bôi nổi tiếng về sản xuất loại trà Tước thiệt. Châu Sa Bôi xưa gồm 6 động, 15 trang, 68 sách. Sa Bôi nay là vùng Cam Lộ, Quảng Trị, song dấu tích về trà Tước thiệt không còn chút gì vương vấn nơi đây (10).
Trong khoảng từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI, văn nhân trí thức Việt vẫn hết sức đề cao phẩm trà lưỡi sẻ. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) ung dung tự thưởng cho mình một ấm chè lưỡi sẻ mới pha, hứng nước từ sương tuyết (11). Vị quan nhà Mạc là Dương Văn An (1514 - 1591), khi khảo sát các vùng núi từ Quảng Bình trở vào Quảng Nam, ông cũng rất ấn tượng với trà Tước thiệt. Trong tác phẩm “Ô châu cận lục”, Dương Văn An viết: “Trà ở huyện Kim Trà, tên gọi là lưỡi sẻ, ở núi An Cựu, giải khát, thanh thần, trừ phiền khử thũng, đứng đầu trăm loại thảo dược, dược phẩm này linh diệu nhất” (12). Theo Trịnh Quang Dũng, trà Tước thiệt nổi danh ít nhất suốt thế kỷ XIV đến tận thế kỷ XVII.
Điểm qua một số tư liệu trên, có thể thấy rằng, Tước thiệt là tên riêng chỉ một loại trà nổi tiếng thơm ngon, linh diệu. Tên gọi này xuất phát từ một đặc điểm của cây trà này là loại trà búp, đọt trà mới nhú có hình lưỡi chim sẻ; sau chế biến khô quăn thanh nhỏ như lưỡi chim sẻ.
Theo đánh giá bước đầu của nhóm nghiên cứu đến từ Học viện Nông nghiệp Việt Nam thì cây Tước thiệt còn gọi là cây săng mã (tên khoa học là Carallia Brachiata Merrill) là cây gỗ lớn thuộc họ Đước, được tìm thấy ở Sri Lanka, Nam Trung Quốc, Thái Lan, vùng Bắc Úc và Việt Nam (ở Việt Nam, Tước thiệt có một số tên gọi khác như: Săng mã, Chăng mã, Trúc tiết). Đây là loài duy nhất của họ đước sống trên vùng cạn. Cũng theo một số tài liệu nghiên cứu của nước ngoài, thân của cây này có tác dụng chữa bệnh ngoài da vì nó có một số hoạt chất kháng viêm, kháng sinh tự nhiên. Về điều nay, Dương Văn An đã đúng khi cho rằng, trà Tước thiệt “đứng đầu trăm loại thảo dược, dược phẩm này linh diệu nhất”.
Là một loại danh trà và là một thảo dược quý, nhưng các nghiên cứu đều cho rằng, trà Tước thiệt đã thất truyền từ lâu. Trong cuốn “Văn Minh Trà Việt”, tác giả Trịnh Quang Dũng đã liệt kê 5 loại trà nổi tiếng nhưng đã thất truyền, gồm: Trà Tước thiệt, trà Hồng Mai, Mạc trà, Ngự trà cam khổ, trà Mạn Hảo. Trên thị trường hiện nay có bán một số loại trà có tên Tước thiệt (như Tân Cương Tước thiệt), có lẽ được chế biến theo lối tước thiệt, chứ không phải trà Tước thiệt trong sử sách.
3. Chùa Tĩnh Lự - nơi phát hiện cây trà Tước thiệt
Chùa Tĩnh Lự (thôn An Quang, xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) là một ngôi chùa cổ có lịch sử gần nghìn năm, được xây dựng năm 1055 dưới thời vua Lý Thánh Tông, nằm trên dãy núi Thiên Thai. Ngôi chùa này là nơi tu hành và truyền giảng kinh Phật của những thiền sư nổi tiếng như thiền sư Thảo Nhất và thiền sư Chân Không. Thế kỷ XVII, dưới thời chúa Trịnh Tráng, chùa Tĩnh Lự được kiến thiết lại với quy mô lớn, trở thành một hành cung nguy nga, tráng lệ của chúa Trịnh. Trải qua năm tháng chiến tranh, chùa Tĩnh Lự bị tàn phá nặng nề và hiện chỉ là một ngôi chùa nhỏ, nhưng trong khuôn viên chùa vẫn còn lưu lại nhiều dấu tích và di vật có giá trị, tiêu biểu như: tượng đất nung có dòng chữ ghi thụy hiệu vua Lý Thái Tông (1000 - 1054); bia đá “Tĩnh Lự thiền tự bi” (năm 1648), được UBND tỉnh Bắc Ninh công nhận là di tích lịch sử - văn hóa; cùng nhiều vật liệu xây dựng, đồ thờ tự và những đồ dùng bằng gốm sứ thuộc nhiều dòng men khác nhau từ thời Lý, Trần đến thời Lê Trung Hưng. Đặc biệt, trong khuôn viên chùa hiện đang tồn tại một loại cây trà quý, đó là trà Tước thiệt.
Cây trà cổ Tước Thiệt trong khuôn viên chùa Tĩnh Lự.
Trong thời gian trụ trì chùa Tĩnh Lự suốt 15 năm qua, tác giả bài viết này đã quan sát thấy tại bản sơn chùa Tĩnh Lự có một loại cây mọc chênh vênh trên vách đá, lá xanh tốt quanh năm và có những đặc điểm liên quan đến trà Tước thiệt. Trên cơ sở nghiên cứu những tài liệu liên quan đến loại trà Tước thiệt, kết hợp với những hiểu biết về nguồn gốc của ngôi chùa thông qua sử liệu và những di vật còn lại, tác giả thấy rằng, cây xanh tại bản sơn chùa Tĩnh Lự hiện nay chính là cây trà Tước Thiệt mà xưa kia các vị thiền sư thường dùng để làm trà. Chùa Tĩnh Lự có lịch sử lâu đời gắn với các vị thiền sư nổi tiếng, cho nên không lạ gì khi trong khuôn viên chùa có cây trà, bởi vì các vị thiền sư thường xuyên sử dụng trà làm thức uống khi thiền định và giảng pháp.
Trong thời gian gần đây, tác giả vẫn thường xuyên dùng lá cây này để pha trà uống. Trong thời gian uống nước trà này, tôi nhận thấy những tác dụng tích cực đối với sức khỏe như: an thần, ngủ ngon, ngủ sâu giấc, khi ngủ dậy tinh thần khỏe mạnh, tỉnh táo. Các cụ ông, cụ bà sống quanh chùa làm theo, thường đến chùa lấy lá cây này về đun nước uống và cũng cảm thấy an thần, ngủ ngon, cơ thể sảng khoái khỏe mạnh. Ngay cả những những người thợ đang lao động trong quá trình trùng tu, xây dựng chùa cũng cho rằng, từ khi uống nước trà này nhận thấy gân cốt dẻo dai…
Theo một phóng sự của Đài Phát thanh - Truyền hình Thái Nguyên, tại chùa Hương Sơn (phường Hương Sơn, thành phố Thái Nguyên) hiện cũng có một cây trà Tước cổ trong khuôn viên chùa, tuổi đời hơn 300 năm. Người dân thường hái lá chè Tước đem hãm nước sôi, hãm được 5 lần, càng hãm càng đậm, uống nước có vị ngọt hơi chát (13). Có thể nói, cây Tước tại chùa Hương Sơn là một trong số ít cây trà Tước được phát hiện. Qua so sánh ban đầu, có thể thấy, cây trà Tước cổ thụ ở chùa Hương Sơn với cây ở chùa Tĩnh Lự là cùng một loại.
Chùa Tĩnh Lự.
Tại chùa Tĩnh Lự hiện chỉ có hai cây trưởng thành, khả năng sinh trưởng phát triển của cây chậm, việc cây tự nhân giống trong tự nhiên gặp khó khăn. Bên cạnh đó, từ khi phát hiện ra những tác dụng đặc biệt của lá trà, người dân trong vùng thường lên chùa hái lá cây về đun nước uống, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự sinh trưởng và tồn tại của cây. Điều đó đặt ra yêu cầu cần có phương án bảo tồn, nhân giống và phát triển cây Tước thiệt và xa hơn là có thể tạo ra những sản phẩm trà từ cây trà quý này.
4. Hướng bảo tồn và phát triển cây trà Tước thiệt
Có thể nói, cây Tước thiệt ở bản sơn chùa Tĩnh Lự hiện nay mang nhiều đặc tính của danh trà Tước thiệt, nhưng đó mới chỉ là những kết quả nghiên cứu ban đầu. Giả thuyết về cây trà Tước thiệt ở chùa Tĩnh Lự cần tiếp tục được chứng minh, làm rõ bằng những nghiên cứu khoa học từ các chuyên gia. Cuối năm 2021, các chuyên gia của Học viện Nông nghiệp Việt Nam - đơn vị hàng đầu ở Việt Nam chuyên nghiên cứu về cây trồng, đã về chùa Tĩnh Lự để nghiên cứu cây Tước thiệt, nhằm đánh giá đặc điểm nông sinh học và bước đầu nghiên cứu phương pháp nhân giống cây Tước thiệt.
Trước khi cây trà Tước thiệt được nhân giống rộng rãi, tác giả mong rằng sẽ có nhiều cây trà Tước thiệt được trồng tại khuôn viên chùa Tĩnh Lự, bởi đây là nơi phát hiện ra cây này, và vùng đất này chắc chắn có những điều kiện phù hợp để trồng cây Tước thiệt (vì thực tế là cây Tước thiệt đang phát triển tại đây), qua đó có thêm nguồn trà để phục vụ Phật tử quanh chùa. Nhưng trước khi nghĩ đến việc nhân giống, thì một việc quan trọng trước tiên là cần có phương án để bảo tồn được hai cây trà Tước thiệt hiện đang mọc chênh vênh trên vách đá.
Trong tương lai, khi cây trà Tước thiệt đã phát triển thành một vùng nguyên liệu thì có thể khai thác để tạo ra các sản phẩm trà. Chúng ta biết rằng, từ cùng một cây trà, có thể làm ra nhiều loại sản phẩm khác. Ở Nhật Bản, các đồ uống từ trà rất phong phú như: trà xanh, trà sấy khô (kiểu trà Tàu), trà sữa matcha, sinh tố… Bên cạnh đó, nhiều loại đồ ăn được chế biến từ trà như: Bột trà xanh nguyên chất, bánh quy kem trà xanh, bánh xốp sôcôla trà xanh, bánh que vị trà xanh, kẹo sữa trà xanh, bánh gấu trà xanh…
Đối với cây trà Tước thiệt ở chùa Tĩnh Lự, việc tạo ra các sản phẩm phong phú như trên là điều không hề dễ dàng, do đó, bước đầu có thể tạo ra các sản phẩm đơn giản hơn như trà Tước thiệt sấy khô và túi lọc trà. Các sản phẩm này nên được gắn thương hiệu trà Tước thiệt chính cống, trên bao bì có phần giới thiệu rằng đây là một danh trà của người Việt. Việc tạo ra các sản phẩm từ cây trà Tước thiệt mang nhiều ý nghĩa quan trọng: thứ nhất là phục hồi và phát triển một danh trà của người Việt Nam vốn bị cho là đã thất truyền; thứ hai, góp phần khẳng định và quảng bá giá trị lịch sử - văn hóa của chùa Tĩnh Lự - một quốc tự và hành cung của vua chúa trong lịch sử; thứ ba, để khi Phật tử hành hương về chùa Tĩnh Lự thì có một sản phẩm trà Tước thiệt để Phật tử mua về sử dụng hoặc làm quà tặng, vừa ý nghĩa, vừa tốt cho sức khỏe. Với ý tưởng này, có thể nghĩ đến việc tạo ra một sản phẩm trà gắn với tên tuổi chùa Tĩnh Lự, đơn cử như: “Tĩnh Lự Cổ Tự Tước Thiệt Trà”.
Kết luận
Trà là một thức uống lâu đời, phổ biến của người Việt. Do có thói quen uống trà và văn hóa trà khá đặc sắc, cho nên người Việt cũng có nhiều loại trà nổi tiếng, trong đó có trà Tước thiệt. Tước thiệt là một danh trà thơm ngon, một dược liệu quý, được nhắc tới nhiều trong các tư liệu cổ của thiền sư Tuệ Tĩnh, Nguyễn Trãi, Dương Văn An…, nhưng đã thất truyền.
Tuy nhiên, tại bản sơn chùa Tĩnh Lự - một ngôi chùa cổ có lịch sử gần nghìn năm, hiện tồn tại hai cây trà mang đầy đủ các đặc tính của trà Tước thiệt. Việc nghiên cứu về cây trà này đang được triển khai tích cực. Để bảo tồn và phát triển cây trà Tước thiệt, trước tiên cần có phương án để bảo vệ, chăm sóc hai cây trà hiện đang mọc chênh vênh trên vách núi; bên cạnh đó, cần nghiên cứu nhân giống cây này để mở rộng trồng tại khuôn viên chùa Tĩnh Lự và vùng phụ cận, hướng tới việc tạo ra các sản phẩm trà Tước thiệt chính cống. Việc bảo tồn và phát triển trà Tước thiệt không chỉ có ý nghĩa đối với văn hóa trà Việt, mà còn góp phần khẳng định và quảng bá giá trị lịch sử văn hóa của ngôi chùa cổ Tĩnh Lự.
* Ảnh do tác giả cung cấp.
Chú thích
1. 3. Nhất Thanh, Đất lề quê thói, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2016, tr.96, 102, 103.
2. Ở Việt Nam, người dân dùng hai từ “chè” và “trà” mà không có sự phân biệt nào, tất cả chỉ do thói quen. Người miền Nam thì dùng thống nhất là “trà”, chỉ có người miền Bắc là dùng lẫn lộn cả “trà” và “chè”. Theo: Đỗ Quang Tuấn Hoàng, Ngang dọc đường trà, Nxb Dân trí, Hà Nội, 2019.
4. Theo: Đại Việt tứ đại danh trà, cập nhật ngày 29/11/2021, nguồn: https://trainghiemsong.vn
5, 7. Theo: Thập đại danh trà Việt, truy cập ngày 15/4/2022, nguồn:https://che-sach.com; 10 loại trà nổi tiếng của Việt Nam (phần 2), truy cập ngày 15/4/2022, nguồn: https://olongtra.com
6. Theo: Những ông tổ trà và văn hoá uống trà Việt Nam gắn liền với lịch sử cây chè ở Việt Nam và thế giới, cập nhật ngày 03/04/2021, https://shintea.com
8. Tuệ Tĩnh, Nam dược quốc ngữ phú, in trong Tuệ Tĩnh toàn tập, tr.382. Dẫn theo: Trần Quang Đức, Chuyện trà lịch sử một thức uống lâu đời của người Việt, Nxb Thế giới, 2022, tr.133.
9. Nguyễn Trãi (2019), Ức Trai di tập - Dư địa chí, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2019, tr.186
10. Theo: Trịnh Quang Dũng, Văn minh Trà Việt, Nxb Phụ nữ, 2012.
11. Trần Quang Đức, Sđd, tr.133-134.
12. Dương Văn An, Ô châu cận lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2021, tr.42.
13. Đài Phát thanh - Truyền hình Thái Nguyên, Cây chè Tước cổ tại chùa Hương Sơn, video trên YouTube, https://www.youtube.com
Bình luận