“Bài ca giữ nước” của NSND Tào Mạt và những đóng góp cho nghệ thuật chèo Việt Nam

Trong nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam nói chung, nghệ thuật sân khấu chèo nói riêng, bộ ba chèo “Bài ca giữ nước” của Nghệ sĩ Nhân dân Tào Mạt có một vị trí đặc biệt trong tâm trí của bạn nghề cũng như của công chúng khán giả yêu chèo. Đó là vì sự đóng góp to lớn của tác giả và tác phẩm này cho đời sống xã hội cũng như đời sống sân khấu Việt Nam những thập niên cuối của thế kỷ XX nói chung; cho nghệ thuật chèo về đề tài lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng nói riêng. Cho đến nay, những bài học thành công của tác giả Tào Mạt trong “Bài ca giữ nước” vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục được khẳng định trên sân khấu nghệ thuật chèo Việt Nam.

Tư tưởng thời đại, phục vụ chính trị

Bộ ba chèo Bài ca giữ nước ra đời trong giai đoạn 1979 - 1983, trong bối cảnh đất nước mới hoàn toàn thống nhất.

Để sáng tác các vở chèo trong Bài ca giữ nước, Tào Mạt đã đọc các Nghị quyết số 4, 6, 10 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV.

Tập 1 - Lý Thánh Tông chọn người tài được sáng tác và dàn dựng, khi Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa V kỳ thứ 6 vừa công bố thì vở cũng ra đời. Chính Tào Mạt đã từng nói rõ ý định của mình: “Tôi viết vở này là để phục vụ Nghị quyết V của Đảng”. Như vậy, ý đồ sáng tác Bài ca giữ nước và việc hiện thực hóa ý đồ đó do tác giả Tào Mạt cùng với tập thể Đoàn Văn công Tổng cục Hậu cần (nay là Nhà hát Chèo Quân đội) thực hiện là có chủ đích phục vụ các nhiệm vụ chính trị rất rõ ràng.

Vở chèo đầu tiên trong bộ ba chèo Bài ca giữ nước - vở Lý Thánh Tông chọn người tài, ra đời, tiếp đến là tập 2, rồi tập 3 cũng ra đời không lâu sau đó. Thời điểm Tào Mạt hình thành ý tưởng rồi sáng tác và dàn dựng bộ ba chèo chính là vào thời điểm xảy ra cuộc xâm lược ở biên giới phía Bắc, khiến nhân dân cả nước vô cùng căm phẫn... Đây là nguyên cớ khiến Tào Mạt xây dựng nhân vật lái buôn Tống (trong tập 1 và tập 2), và tên Đại Lý (trong tập 3) - những nhân vật phản diện, bày mưu quấy phá triều đình nhà Lý...

Trong không khí đất nước lúc bấy giờ, các vở Lý Thánh Tông chọn người tài, Ỷ Lan coi việc nước Lý Nhân Tông học làm vua ra mắt công chúng đã có một ý nghĩa đặc biệt, mang tính thời sự nóng hổi, hợp lòng dân, được đông đảo công chúng hồ hởi đón nhận, ngợi ca.

“Bài ca giữ nước” của NSND Tào Mạt và những đóng góp cho nghệ thuật chèo Việt Nam - 1

NSND Tào Mạt. Ảnh: NSNA Hoàng Kim Đáng

Bộ ba chèo Bài ca giữ nước không những là một hiện tượng của sân khấu chèo, mà còn là một hiện tượng xã hội vào những năm đầu và giữa thập niên 80 của thế kỷ XX. Hiện tượng này cũng tương tự như hiện tượng kịch Lưu Quang Vũ, cùng nổi lên vào quãng thời gian đó. Lấy đề tài hiện đại, nhưng đều bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đề cập đến những vấn đề bức thiết của xã hội và con người, đó là vấn đề đạo đức, đạo làm người, là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, là những khát khao chính đáng của con người về tình yêu, về hạnh phúc...

Điều nổi bật là ở các tác phẩm sân khấu này đều thể hiện tính đấu tranh mạnh mẽ, vạch trần và chống lại cái xấu xa, cái lạc hậu, hướng con người tới những điều tốt đẹp, lương thiện. Đó là những lý do giải thích vì sao bộ ba chèo Bài ca giữ nước lại trở thành những hiện tượng cuốn hút khán giả đến bùng nổ như vậy, nhất là trong bối cảnh nghệ thuật sân khấu truyền thống đang rơi vào tình trạng khủng hoảng, phải đối mặt cạnh tranh với nhiều loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại đang ồ ạt tràn vào nước ta dưới tác động của toàn cầu hóa, sân khấu chèo và các nghệ sĩ chèo gặp nhiều khó khăn.

Sự kiện bộ ba chèo Bài ca giữ nước ra đời còn có một tác động mang tính xã hội nữa, tưởng rằng chỉ liên quan đến đơn vị, một số người, nhưng thực ra là có ý nghĩa lớn hơn nhiều. Ngay trước thời điểm Tào Mạt và tập thể Đoàn Chèo Tổng cục Hậu cần chuẩn bị dàn dựng Bài ca giữ nước chính là lúc lãnh đạo Bộ Quốc phòng và Tổng cục Hậu cần đang dự kiến giải thể Đoàn Chèo Tổng cục Hậu cần, biến Đoàn thành một đội tuyên văn trực thuộc Tổng cục Hậu cần.

Trước nguy cơ bị giải tán, lãnh đạo và anh em nghệ sĩ của Đoàn càng mong muốn có một chương trình nghệ thuật thật tốt để biểu diễn phục vụ quân đội và Nhân dân, hy vọng lãnh đạo cấp trên ghi nhận thành tích mà thay đổi ý định... Với một tinh thần quyết tâm cao, làm việc khẩn trương và không biết mệt mỏi của tác giả, đạo diễn Tào Mạt và tập thể Đoàn Chèo Tổng cục Hậu cần, cuối cùng bộ ba chèo Bài ca giữ nước ra đời, gặt hái thành công lớn, liên tiếp giành được 2 Huy chương Vàng của Hội diễn Nghệ thuật Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc các năm 1980 và 1985.

Thành công to lớn của bộ ba chèo Bài ca giữ nước không chỉ dừng lại ở ý nghĩa thời sự lúc bấy giờ mà có ý nghĩa mang tính khái quát tư tưởng của thời đại, do tài năng của tác giả - đạo diễn Tào Mạt và các cộng sự cùng tập thể diễn viên Đoàn Chèo Tổng cục Hậu cần đạt được trên cả sự mong đợi. Bài ca giữ nước ra đời đã có tác động và tầm ảnh hưởng không nhỏ đến bầu không khí chính trị lúc bấy giờ, khiến cho tác giả và vở diễn buổi đầu ra mắt gặp một số ý kiến, hoặc phản đối, hoặc e ngại động chạm vì tính chiến đấu mạnh mẽ của vở diễn. Điều đó càng chứng tỏ ý nghĩa xã hội mà vở diễn mang lại không nhỏ và những người tiếp nhận nó không thể thờ ơ, buộc phải suy ngẫm...

Bài học giáo huấn đạo đức và triết lý nhân sinh

Nếu như trong các vở chèo cổ, chức năng giáo huấn đạo đức được đặt lên hàng đầu thì trong các vở chèo hiện đại chức năng ấy vẫn rất được coi trọng. Tuy nhiên, nếu như thứ đạo đức mà sân khấu chèo truyền thống giáo huấn là đạo đức phong kiến về trung, hiếu, tiết dành cho bậc nho sĩ; về công, dung, ngôn, hạnh, dành cho tầng lớp bình dân, thì trong các vở chèo của Tào Mạt nói chung, trong bộ ba chèo Bài ca giữ nước nói riêng đạo đức mà tác giả muốn giáo huấn là những giá trị đạo đức truyền thống và đạo đức cách mạng, liên quan tới dân tộc, con người và xã hội đương đại. Từ đó kết tinh thành những triết lý nhân sinh mà Tào Mạt đã ký thác vào nhân vật - những người phát ngôn thay cho ông.

Từ khi còn là một anh lính trẻ cho đến khi là sĩ quan cao cấp của quân đội, Tào Mạt luôn trăn trở trước những vấn đề của đất nước, của xã hội. Cho nên ngay từ khi mới cầm bút sáng tác những vở kịch ngắn, chèo ngắn, ông đã đề cập tới những vấn đề gắn liền với những chặng đường lịch sử của dân tộc... Có thể tìm thấy trong các vở chèo của ông như Đường về trận địa (1966), Sông Trà Khúc (1968), Nguyễn Viết Xuân (1968 - 1970), Khúc hát dưới chân núi Nguyệt Hằng (1978) những triết lý giản dị về tình đồng đội, về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta; về sự tất yếu phải cải tạo nông thôn, phát triển nông nghiệp, v.v.

Ở những vở chèo đề tài hiện đại này, những triết lý nhân sinh mà tác giả nói tới cũng chỉ là những điều bình dị, nhiều người đã nói, đã thấy trong cuộc sống, nên chưa tạo được dấu ấn gì đặc biệt. Nhưng đến Bài ca giữ nước thì có một sự đột biến kỳ diệu. Thông qua những lời nói, bài ca của các nhân vật như Ỷ Lan, Thái úy Lý Thường Kiệt, cung nữ, cháu Ngọc Hoa, và nhất là của Hề Hoạn - Hề Già, tác giả đã tuyên ngôn một triết lý nhân sinh rất giản dị nhưng đầy chất trí tuệ và nhân văn, là sự đúc kết của cả một đời nhà văn trăn trở, chiêm nghiệm, có khi phải trả giá đớn đau, nhưng không chịu lùi bước trước cái ác, cái xấu xa, với một tinh thần công dân yêu nước chân chính.

Suốt chiều dài cả ba tập trong Bài ca giữ nước có thể tìm thấy trong rất nhiều lời thoại và lời hát những triết lý mà tác giả đã gửi gắm vào các nhân vật. Những triết lý của Tào Mạt liên quan đến rất nhiều vấn đề, nhiều góc cạnh của cuộc đời và thời cuộc: Từ những vấn đề to tát như lẽ thịnh - suy của sơn hà xã tắc, lẽ hưng vong của một triều đại, đến mối quan hệ vua - tôi, vua - hệ vua - tôi, vua - thần dân, rồi đạo làm vua, đạo làm quan, đạo làm người...

Triết lý nhân sinh trong Bài ca giữ nước được tác giả tài ba Tào Mạt gửi vào lời ca, tiếng nói của nhân vật đã đi vào lòng người, gây ấn tượng mạnh mẽ bởi chúng chí lý chí tình, có nhân có nghĩa.

Màn Du cảnh Hồ Tây, qua những đoạn đối thoại giữa Vua Lý Nhân Tông và chú cháu người thuyền chài (Mục Thận - Ngọc Hoa), qua những bài ca mà Ngọc Hoa hát đầy ắp tình giữa người với người, giữa “em” và “anh” (nhân), giữa cha và con (hiếu)... Lớp đối thoại giữa Vua Lý Nhân Tông với cung nữ trên sân điện Kính Thiên cũng hàm chứa triết lý về tình người, về đạo làm vua, về mối quan hệ giữa Vua và dân, về đạo thầy - trò, đạo vợ - chồng... Khi nhà vua hỏi cung nữ nên xử lý ra sao vụ Lê Văn Thịnh mưu giết vua, cung nữ thưa: “... Việc xử trí đại thần là việc lớn của bề trên, đức Vua nên trình Hoàng Thái hậu”.

Lời Vua Lý Nhân Tông: “Muốn làm vua tốt phải thấu tình người. Làm người trước tiên phải nhân, phải hiếu. Nhân là thương người... Người mà không thương người thì khác gì loài cọp dữ. Kẻ làm vua mà không có nhân thì dân sẽ khổ. Làm vua có nhân thì dân có phúc. Dân không có phúc thì chính là không có phúc cho người làm vua”.

Cung nữ nói với vua: “Đức vua thương con cho con làm người, con xin lấy đạo làm người để cư xử với Người”. Câu nói rất giản dị của cung nữ: “Con chỉ muốn sống cảnh một chồng một vợ, và điều đó cũng chẳng có gì là khó. Bởi lẽ yêu người, người sẽ yêu ta” đã toát lên triết lý về chữ nhân, chữ nghĩa, chữ tình trong đạo vợ - chồng. Cung nữ nhắc lại lời cha mẹ đã khuyên nàng khi còn ở quê nhà: “Tình vợ chồng gốc là ở sự thương yêu, không có sự thương yêu không thương con thì cho con được như ý mình mà không trái với đạo làm người, không tổn hại đến ai, tay làm hàm nhai, yêu ai sống cùng người đó”.

Điều đặc biệt ở đây là Tào Mạt đã để cho nhân vật cung nữ trò chuyện với vua một cách rất bình đẳng, rất chân thành và thẳng thắn, còn nhà vua thì đã lắng nghe và tán đồng. Những lời nói của cung nữ đã làm cho vua bấy giờ mới hiểu rõ: “Không có sự thương yêu không phải nghĩa vợ chồng. Với đàn bà hay đàn ông, là dân hay là vua cũng đều như thế”. Nghe lời cung nữ nói, nhà vua lại càng thêm quý trọng mẹ mình, người thường dạy ông “lẽ phải, điều khôn có thể học ở người dân dã”.

Bài học triết lý về đạo làm tướng được Tào Mạt gửi gắm thông qua nhân vật Thái úy Lý Thường Kiệt, người đã luận về mối quan hệ của ba chữ trí - dũng - nhân: “Trí dũng theo tôi phải có gốc ở chữ nhân. Trí có thể được lòng dân, nhưng không có nhân không bền, dũng có thể khuất phục được dân, nhưng không có nhân thì dân không vui. Trí dũng mà có nhân thì có lợi cho thiên hạ, trí dũng mà không nhân thì phiền nhiễu cho thiên hạ. Trị nước không cốt ở sự mang ơn. Nhân ví như sự vui, ân ví như nụ cười. Tâm thực vui thì cười hay không cười vẫn vui. Tâm không thực vui thì cười chỉ là gắng gượng. Người có nhân thì không cứ làm ơn mới là nhân. Giúp cho người làm ra thóc thì hơn phát chẩn bần. Ân là thóc, nhân nghĩa là cái làm ra thóc”.

Như vậy, đến nhân vật Lý Thường Kiệt lại xuất hiện thêm chữ “ân” (ơn), nói về đạo làm quan, làm tướng, làm vua - những người ở ngôi vị “trị nước” thì không nên kế ơn, coi là ban ơn cho dân, muốn cho dân ấm no lâu bền thì nên giúp cho họ “làm ra thóc”, còn phát chẩn cho dân nghèo chỉ là biện pháp tình thế... Ẩn trong những lời nói ấy của Thái úy Lý Thường Kiệt là một tấm lòng thương dân (nhân) và có cả một tư tưởng lớn (trí) của một vị tướng tài ba.

Trong Bài ca giữ nước, những triết lý nhân sinh sâu sắc ở đời tác giả Tào Mạt đã gửi gắm vào nhân vật Hề Hoạn - Hề Già. Về đạo làm người, anh Hề Hoạn từng hát: “Ăn chanh ngồi gốc cây chanh/ Chăm cội, chăm cành, chăm lá, chăm bông/ Vì người người chẳng phụ công/ Yêu người người sẽ vui lòng yêu ta”.

Bị quy vào tội chết oan nghiệt, trước khi chết, ông Hề Già đã đặt câu hỏi lớn mà kẻ xấu, kẻ ác nghe đều phải cảm thấy tội lỗi, vì câu trả lời đã quá rõ: “Trăm năm trong cõi người ta/ Yêu nhau thì sướng hay là hại nhau?”.

Những triết lý nhân sinh sâu sắc hơn cả mà ông Hề Già luận giải là những triết lý về người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ là người có con mắt tinh tường, nhìn thấy được mọi cái hay - dở, tốt - xấu, thiện - ác; nhìn thấy rồi thì người nghệ sĩ phải có bản lĩnh để lựa chọn một thái độ ứng xử đúng đắn, phù hợp với từng đối tượng. Tiếng cười của người nghệ sĩ trong chèo Tào Mạt có sức mạnh ghê gớm: “Ta cười cho sáng lẽ dở hay/ Kẻ gian hoảng vía, người ngay hả lòng”. Nếu vì dám chiến đấu chống cái xấu, cái ác mà người nghệ sĩ bị tước đoạt sự sống thì lại có người khác tiếp tục cuộc chiến, đó là quy luật: “Nếu còn kẻ nhung nhăng bậy bại thì dân gian lại nảy ra hề”.

Cái làm nên sức hấp dẫn, sức thuyết phục mạnh mẽ của Bài ca giữ nước có sự đóng góp rất lớn của giá trị triết lý nhân sinh; tác phẩm. Đặc biệt, Tào Mạt đã phát triển những bài học giáo huấn đạo đức của chèo truyền thống lên một tầm cao mới, đó là giáo huấn về đạo làm vua, đạo làm quan. Qua lời đối thoại giữa vua và cung nữ, trong lời của Hề Già, tác giả Tào Mạt bộc lộ quan điểm: Muốn có đạo làm vua thì phải học, mà phải học trong dân, phải thấu hiểu lòng dân. Điều này không hề có trong bất kỳ vở chèo truyền thống nào. Chèo cổ cho rằng học đạo là học từ Thánh hiền (Đạo Khổng), còn ở Bài ca giữ nước là học dân. Đây là một bước phát triển mới từ Chèo cổ mà Tào Mạt đã gửi gắm vào Bài ca giữ nước.

Sự kế thừa và phát triển nghệ thuật chèo Việt Nam

Cùng với những cộng sự là những nhạc sĩ có trình độ chuyên môn cao như Thế Phiệt, Đôn Truyền, Đỗ Tùng, Lưu Luyến, Tào Mạt đã dựa vào vốn thông thuộc dân ca rất giàu có của mình để “bẻ làn nắn điệu”, sân khấu hóa nhiều bài dân ca, ca dao, sáng tạo được một số điệu hát, điệu ngâm từ gốc dân ca. Đó là các điệu hát của Hề Hoạn - Hề Già, nổi bật nhất là trong lớp “chôn hề”; bài hát tự sự của Hoàng phi Ỷ Lan khi bị đổ oan hãm hại vua; các điệu hát của cháu Ngọc Hoa trong màn Du thuyền Hồ Tây; bài hát khóc ông Hề Già của quan Thái úy Lý Thường Kiệt; các điệu hát mà cung nữ hát cho Vua Lý Nhân Tông nghe...

Trong lịch sử sân khấu chèo, không phải đợi đến khi có nhân vật Hề Hoạn - Hề Già của Tào Mạt trong Bài ca giữ nước thì mới có những sáng tạo mới về hề chèo. Nhà nghiên cứu Trần Đình Ngôn đã đánh giá cao những thành công của Nguyễn Đình Nghị và các nghệ sĩ trong việc đưa tiếng cười trào lộng lên sân khấu chèo - Cải lương khi cho rằng: “Tiếng cười trên sân khấu chèo - cải lương Nguyễn Đình Nghị chính là sự tiếp nối truyền thống của hề chèo trong một giai đoạn phát triển mới, đưa chèo vào đề tài hiện đại, phản ánh cuộc sống đương đại. Nó đã thừa kế và phát huy tính chiến đấu của hề chèo truyền thống”. Về mặt nghệ thuật, tác giả nhận xét: “Nguyễn Đình Nghị đã vận dụng rất thuần thục các ngón hề chèo,... đã tỏ ra rất sắc sảo, tài hoa các mảnh hề chèo của ông”.

Đến giai đoạn chèo cách mạng, chèo hiện đại, sân khấu chèo có một số tác giả và tác phẩm đã thành công trong việc xây dựng nhân vật hề chèo trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo nghệ thuật hề chèo truyền thống như: Tác giả Phan Tất Quang với các vở Đường đi đôi ngả, Trăng lên hoa nở; tác giả Việt Dung với vở Sợi tơ vàng; tác giả Trần Đình Ngôn với các vở Người Dao xuống núi, Chuyện tình bên mái đình xưa, Duyên nợ ba sinh; tác giả Hoài Giao với vở Trạng lợn và mưu sĩ... nhân vật Hề Hoạn - Hề Già trong Bài ca giữ nước, hình tượng nhân vật hề chèo đã có những biến đổi sâu sắc, nghệ thuật xây dựng hề chèo của Tào Mạt cũng được giới chuyên môn đánh giá ở một tầm cao mới.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành cho rằng hình tượng nhân vật Hề Hoạn là sáng tạo độc đáo mà Tào Mạt đã đóng góp thêm vào nghệ thuật chèo. “Hề chèo truyền thống chỉ là những mảnh vụn, những nhân vật bên lề - điểm xuyết, đến Bài ca giữ nước đã trở thành nhân vật xuyên suốt một vở dài ba phần với số phận và tính cách thật đáng nhớ, có thể sánh ngang với những hình tượng nhân vật nổi tiếng xưa và nay”...

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Duy Khuê đã viết: “Bằng vào việc lấy hài để tả bi, Tào Mạt đã đưa vai hề từ chỗ chẳng là ai trong các vở chèo cổ, thành Hề Hoạn, nhân vật chính duy nhất, không chỉ trong một vở mà hiện diện trong suốt cả trong bộ ba vở diễn giữ nước. Không thể không thừa nhận, trong Bài ca giữ nước, Hề Hoạn xứng đáng là nhân vật điển hình, trong hoàn cảnh điển hình của nó”.

Nhân vật Hề Hoạn - Hề Già trong bộ ba Chèo Bài ca giữ nước là kết quả của sự sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của Tào Mạt trong việc kết hợp nhuần nhuyễn vừa kế thừa, vừa phát triển đột biến nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật hề chèo của cha ông.

Bộ ba chèo Bài ca giữ nước đã khẳng định những đóng góp quan trọng của Tào Mạt cho nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam trên hai phương diện: Đóng góp chính trị - xã hội và đóng góp về mặt nghệ thuật. Trên phương diện xã hội, với mục đích rất rõ ràng là sáng tác để phục vụ nhiệm vụ chính trị, lấy chuyện nay với tư tưởng lớn “lấy dân làm gốc” và giáo huấn đạo đức truyền thống, đạo đức cách mạng: Đạo làm người, đạo làm vua, đạo làm quan làm tướng đạo vợ - chồng… Với những bài học giáo huấn đạo đức và triết lý nhân sinh chí lý chí tình, Bài ca giữ nước đã có tác động xã hội mạnh mẽ từ khi ra đời và cho đến tận hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.

Về mặt nghệ thuật, Tào Mạt và Bài ca giữ nước đã có nhiều đóng góp to lớn, nêu bài học về kế thừa, tiếp thu sáng tạo những tinh hoa nghệ thuật truyền thống để sáng tạo nên các tác phẩm sân khấu kịch hát vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa đậm tính hiện đại, mang hơi thở của thời đại mới.

Những đóng góp của Tào Mạt và Bài ca giữ nước có giá trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn của ngành sân khấu Chèo Việt Nam. Và phương diện lý luận, tác phẩm đã làm sáng tỏ hơn một vấn đề vốn bấy giờ còn gây tranh luận trong giới chuyên môn, rằng nhân vật chèo là nhân vật có tính cách phát triển.

Về phương diện thực tiễn làm nghề, tác phẩm đã bổ sung cho nghệ thuật sân khấu chèo nhiều làn điệu mới có giá trị nghệ thuật đặc sắc. Với nhân vật Hề Hoạn - Hề Già, Tào Mạt đã đóng góp vào nghệ thuật sân khấu chèo Việt Nam một mô hình nhân vật hề vừa rất truyền thống, vừa rất hiện đại. Sân khấu chèo Việt Nam có thêm một số mảnh trò hay, trích đoạn đặc sắc.

Đối với những người làm chèo hôm nay, Tào Mạt và Bài ca giữ nước mãi là một hiện tượng điển hình đáng để học tập, để tiếp tục con đường sáng tạo mà người nghệ sĩ tài ba - Đại tá, NSND Tào Mạt đã khai thông, định hướng.

Nguyễn Thị Thanh Nga

Tin liên quan

Tin mới nhất