Điện ảnh Việt Nam từ khi đất nước thống nhất 50 năm một chặng đường
Từ cuối thập kỷ 40, điện ảnh đã thể hiện tinh thần tự lực tự cường, từng bước trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước. Khi hòa bình trở lại đã ghi những dấu ấn đặc biệt bằng những tác phẩm điện ảnh có ý nghĩa to lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng của nhà nước Việt Nam.
Chúng ta nhớ điện ảnh Việt Nam một thời vinh quang, thời kỳ 1959-1965 - sau kháng chiến chống Pháp, thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và đại thắng mùa xuân năm 1975 đã có nhiều tác phẩm thành công. Một số bộ phim đã ghi dấu ấn đặc biệt: Con chim vành khuyên, Chú Tư Hậu, Vợ chồng A Phủ, Hai người lính, Mối tình đầu, Vĩ Tuyến 17 ngày và đêm, Em bé Hà Nội, Bao giờ cho đến tháng Mười… Về phim tài liệu có: Lũy thép Vĩnh Linh, Dòng thác bạc, Những ngày xăm, Đón trên núi Ba Cao, Hồ Chí Minh trong một con người…
Đó là thời kỳ đầu tiên điện ảnh Việt Nam tự hào là nền điện ảnh đậm đà bản sắc dân tộc, được nhà nước quan tâm đầu tư nuôi dưỡng phát triển 100%.
Cảnh trong phim "Vợ chồng A Phủ".
Trên đường thắng lợi
Từ năm 1975, đất nước thống nhất, điện ảnh Việt Nam có một thiết chế thống nhất với hệ thống quản lý từ trung ương đến địa phương. Toàn ngành hoạt động trong một môi trường liên hợp phát triển giúp đỡ nhau cùng phát triển theo sự lãnh đạo định hướng duy nhất của Đảng và nhà nước.
Ở miền Nam có Điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh, Xưởng phim tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Xưởng phim Nguyễn Đình Chiểu. Ở miền Bắc có các đơn vị Hãng phim truyện Việt Nam, Hãng phim Tài liệu và Khoa học trung ương, Xưởng phim Hoạt họa - Búp bê, Điện ảnh Quân đội nhân dân, Điện ảnh Công an nhân dân, Điện ảnh Bộ đội biên phòng, Điện ảnh Hà Nội, Điện ảnh Giao thông vận tải, Điện ảnh Hải Phòng (thời kỳ 1975-1986).
Điện ảnh Việt Nam phát triển mạnh mẽ thành công với nhiều tác phẩm điện ảnh có dấu ấn, đánh dấu sự bội thu của điện ảnh hai miền. Được sự quan tâm đầu tư của nhà nước, nhiều tác phẩm phản ánh những chiến công lớn của dân tộc, những câu chuyện cảm động của quân và dân ta qua thắng lợi của hai cuộc kháng chiến, điện ảnh miền Bắc với các phim: Em bé Hà Nội, đạo diễn Hải Ninh; Chuyến xe bão táp của đạo diễn Trần Vũ; Tội lỗi cuối cùng đạo diễn Trần Phương; Chị Dậu của đạo diễn Phạm Văn Khoa; Làng Vũ Đại ngày ấy, Đạo diễn Phạm Văn Khoa; Thị xã trong tầm tay, Bao giờ cho đến tháng mười đạo diễn Đặng Nhật Minh…
Điện ảnh miền Nam với các phim Xa và gần của đạo diễn Huy Thành; Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng của đạo diễn Hồng Sến…
Phim truyện nhựa tài liệu trong kháng chiến chống Mỹ đã có được những thành công vang dội, giành được các giải thưởng cao trong các liên hoan phim quốc gia và quốc tế, gây ấn tượng đậm nét với bè bạn khắp thế giới về những con người Việt Nam bất khuất kiên cường, xả thân vì độc lập tự do của đất nước nhưng hết sức nhân hậu, vị tha, mang cái đẹp của con người Việt Nam yêu nước, đã mang lại 8 giải thưởng quốc tế, 4 giải Bông Sen Vàng, 4 giải Bông Sen bạc ở Liên hoan phim quốc gia. Đó là vụ đầu bội thu của điện ảnh Việt Nam thời kỳ 1975 - 1986.
Điện ảnh Việt Nam một thời suy thoái
Năm 1986, khi xã hội Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, văn học nghệ thuật cả nước bị cuốn vào quỹ đạo chung. Có những cuộc cải cách đổi mới để thoát ra tình trạng trì trệ do chế độ bao cấp lâu ngày tạo ra. Điện ảnh Việt Nam chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang chế độ kinh tế tự hạch toán theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước.
Từ năm 1989, Nhà nước cắt tất cả các nguồn bao cấp từ sản xuất phim, phát hành phim chiếu bóng để các đơn vị tự hạch toán, tự cân đối thu chi nuôi lấy nhau. Điện ảnh Việt Nam gần như bị thả nổi, chỉ còn một phần nhỏ tài trợ cho phim nhà nước đặt hàng. Điện ảnh Việt Nam rơi vào thời kỳ khủng hoảng với nhiều bệnh trầm kha từ thời bao cấp, phải vật lộn cứu lấy mình. Vì phim làm ra không có người xem, rạp chiếu phim không có khách, không có tiền sản xuất phim mới, không có tiền nhập khẩu phim… Người xem cả nước chuyển sang xem phim truyền hình tại nhà, dẫn đến việc ồ ạt nhập băng lậu, đĩa lậu tuồn vào nước ta làm rối loạn, ô nhiễm môi trường văn hóa cả nước. Đó là thời kỳ khủng hoảng sâu sắc của điện ảnh Việt Nam xảy ra những vụ động trời về điện ảnh ở Hãng Phim truyện Việt Nam ở miền Bắc, đất đai ở hãng phim truyện, tham ô tài chính ở Cục Điện ảnh Việt Nam.
Dẫu vậy trong thời kỳ này, điện ảnh Việt Nam cũng có một số phim gây được ấn tượng với người xem ở các liên hoan phim và quốc tế như: Người đàn bà nghịch cát của đạo diễn Đỗ Minh Tuấn; Tuổi Thơ Dữ Dội của đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn và Mùa đông 1946 của đạo diễn Đặng Nhật Minh, Ngã ba Đồng Lộc của đạo diễn Lưu Trọng Ninh… phim tài liệu có Chốn quê đạo diễn Nguyễn Sỹ Chung.
Điện ảnh miền Nam có Về nơi gió cát đạo diễn Huy Thành; Vị đắng tình yêu đạo diễn Lê Xuân Hoàng. Phim tài liệu có Chốn quê, Chị Năm khùng…
Từ năm 1990 đến năm 1992, Bộ Văn hóa thông tin và du lịch đã cấp phép thành lập nhiều hãng phim lớn nhỏ cho các đơn vị trực thuộc Bộ Văn hóa, đơn vị có và không quốc doanh, được sản xuất phim nhựa nhanh, dẫn đến phong trào nhà nhà làm phim, người người làm phim. Nếu có tiền bất chấp trình độ nghề nghiệp, tài năng… dẫn đến điện ảnh Việt Nam sản xuất ra một số nhà bắt chước kém cỏi về trình độ nghề nghiệp, cẩu thả miễn là có phim để quảng cáo câu khách, thu được lợi nhuận.
Từ năm 1986 đến những năm đầu thập kỷ 90, lần lượt các rạp phim đóng cửa, cả Hà Nội từ 14 rạp chỉ còn 3 rạp chiếu phim. Các loại phim điện ảnh truyền hình “mì ăn liền” ra đời với đầu tư thấp, làm nhanh, giá rẻ để kiếm tiền. Điện ảnh Việt Nam tê liệt rã rời suy thoái.
Có thể khẳng định điện ảnh Việt Nam từ năm 1975 - 2000 là một nền điện ảnh cách mạng được định hướng đầu tư của nhà nước với khẩu hiệu: Các liên hoan phim năm 1975 là “Xây dựng một nền điện ảnh tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc con người xã hội chủ nghĩa”, năm 1986 “Vì sự sáng tạo nghệ thuật hoàn thiện con người xã hội chủ nghĩa, vì sự phát triển của nền điện ảnh dân tộc”. Cho đến năm 2007 có chút thay đổi: “Vì một nền điện ảnh Việt Nam đổi mới đậm đà bản sắc dân tộc và hội nhập”.
Từ định hướng của Đảng và nhà nước có thể khẳng định điện ảnh cách mạng Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ của mình với hàng trăm tác phẩm xuất sắc, ca ngợi lịch sử hai cuộc kháng chiến và nhân dân đất nước anh hùng, dù hình mẫu về con người xã hội chủ nghĩa đến hiện nay vẫn chưa thật rõ ràng. Cho nên bên cạnh những thắng lợi to lớn còn những khuyết điểm tồn tại kéo dài để lại hệ lụy khó khắc phục về cơ chế về kinh tế, về hướng phát triển hiện nay của điện ảnh Việt Nam trong tương lai như Hãng Phim truyện Việt Nam gần 50 năm qua.
Có thể nói Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm rất nhiều đến việc phát triển điện ảnh cách mạng Việt Nam, đã đào tạo đội ngũ, cung cấp tiền của làm phim, mua sắm trang thiết bị để các nghệ sĩ điện ảnh “rút ruột gan tâm huyết” của mình làm ra hàng trăm bộ phim nhựa điện ảnh, phim tài liệu, phim thể loại khác phục vụ nhân dân, phục vụ hai cuộc kháng chiến, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chống phá hoại đất nước… Đó là thành công lớn cần được ghi nhận của điện ảnh Việt Nam với sứ mệnh phản ảnh phục vụ cách mạng được Đảng và nhà nước công nhận.
Tiếp bước
Từ những năm 2000 đến nay, nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, điện ảnh Việt Nam vẫn bước tiếp những bước đi, bắt đầu phải tự vật lộn với chính mình để tồn tại trước cơn lốc của kinh tế thị trường. Nhà nước chỉ tài trợ 3 đến 10 phim/năm; trợ giá 70% cho mỗi phim.
Hiện tại nhiều doanh nghiệp cá nhân đã tự bỏ vốn kinh doanh sản xuất các bộ phim với mục tiêu hướng tới lợi nhuận. Nếu điểm qua một chặng đường lên bổng xuống trầm của điện ảnh Việt Nam thời gian gần đây, mới thấy sự vật vã của ngành điện ảnh đang tìm hướng đi cho chính mình. Đương nhiên phục vụ chính trị là yêu cầu quan trọng nhất của điện ảnh nước nhà, nhưng nếu nhìn về nhiệm vụ đó mà coi nhẹ chức năng giải trí giá trị thẩm mỹ, nhân văn khiến đông đảo khán giả không hào hứng đến rạp thì liệu điện ảnh Việt Nam khó tồn tại những bộ phim ăn khách của các hãng tư nhân như Bố già, Mai, Nhà bà Nữ của Trấn Thành; Một điều ước của Lý Hải.... Đào Phở và piano của Tiến Sơn chứng minh cho điều này. Trong khi các phim về lịch sử truyền thống về ảnh hưởng cách mạng doanh nhân lịch sử rất vắng người xem. Điện ảnh cũng như nhiều nghệ thuật khác, ngoài nhiệm vụ phản ánh hiện thực khách quan còn phải tiên đoán những bước đi trong tương lai kế tiếp.
Đã đến lúc các cơ quan lãnh đạo về điện ảnh cần chú trọng về kinh tế hơn, cả quan niệm về duyệt tác phẩm điện ảnh từ kịch bản đến thành phẩm của sao cho không hạn chế tính sáng tạo của nghệ sĩ.
Rất nhiều tác phẩm văn học lớn, có tiếng vang chưa được đưa lên màn ảnh trong khi phim mua lại kịch bản phim Hàn Quốc, Trung Quốc thì rất nhiều.
Việc điện ảnh Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sản xuất phát hành phim cần định hướng ra sao, cần dành thời điểm ưu đãi để tuyên truyền quảng cáo phát hành phim Việt Nam ở trong nước và xuất khẩu phim Việt Nam ra nước ngoài thế nào… Cho phép tạo điều kiện thúc đẩy tiến hành xã hội hóa hoạt động các hãng phim tư nhân để có những tác phẩm lạ, hay xuất sắc, hội nhập với điện ảnh thế giới.
Điều tiết việc nhập khẩu phim nước ngoài để phim nội có đất phát triển hoàn thiện chặt chẽ hơn. Bộ Luật Điện ảnh giữ vai trò rất quan trọng, cần thiết cho việc quản lý và phát triển điện ảnh trong hiện tại và tương lai.
Nhìn lại những chặng đường qua các thời kỳ của điện ảnh Việt Nam đầu tư và phát triển, điều quan trọng nhất vẫn là sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước với điện ảnh, nếu được quan tâm như các ngành công nghiệp khác, hi vọng Đảng và Nhà nước sẽ cho chúng ta một cơ chế năng động sáng tạo nhất để điện ảnh Việt Nam có thể bay cao, vươn xa hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình.

Nói đến kịch tính trong một tác phẩm nghệ thuật chính là đang nói đến mâu thuẫn và hành động của các nhân vật - Nói...
Bình luận