Cộng một thành thơ...
Có người nói với tôi, anh hãy phê bình chỉ một câu về thơ Đặng Cương Lăng? Thật làm khó nhau quá. Nhưng nếu ai đó đã hỏi, thì tôi xin trả lời: thơ của người thơ này hồn nhiên, mộc mạc, chân chất, duy tình, thuận theo tự nhiên. Không tin thì, xin mời quý vị yêu thơ đọc trực tiếp tập thơ mới nhất của nhà thơ Đặng Cương Lăng - Một tôi cộng một.
Từ một đến... mười bảy
Trong vòng mười ba năm (từ 2009 đến 2022) nhà thơ Đặng Cương Lăng đã xuất bản 17 tập thơ. Có thể ví von, đó là một “con số biết nói”. Đó tựa như là mười bảy khoảnh khắc mùa xuân của đường đời, đường thơ Đặng Cương Lăng. Chỉ có thể là lòng đam mê cao ngất như Hỏa Diệm Sơn, chỉ có thể là lao động chữ nghĩa cật lực như một lão nông tri điền trên cánh đồng chữ, chỉ có thể là niềm tin tôn giáo vào Nàng Thơ - vốn bí ẩn, kiêu hãnh, dù rằng cũng đôi lúc đỏng đảnh - mới có một kết quả mỹ mãn như thế trong thời buổi văn hóa đọc (nhất là thơ ca) đang bị văn hóa nghe nhìn và công nghiệp giải trí - được ví như một thứ khủng long hiện đại - ngoạm mất thị phần tinh thần bởi sức mạnh điều tiết của thị trường.
Nhưng như chúng ta thấy, người thơ vẫn cứ hiên ngang tự tại cùng Nàng thơ phăng phăng tiến lên phía trước. Người ta thường nói, bài thơ đầu (cũng như tập thơ đầu) khác nào mối tình đầu vốn tươi xanh, trong trẻo, đôi lúc vụng dại nhưng chân thành thấu suốt. Tập thơ đầu Trở về (2009) của Đặng Cương Lăng có cái khí vị ấy. Nhưng phải có những “cột mốc” đánh dấu chặng đường thơ của một nhà thơ - với Đặng Cương Lăng, theo tôi, đó là tập Mùa thiêng (2013). Cách nay mười năm, tôi đã viết bài phê bình Giao cảm mùa trong thơ Đặng Cương Lăng (về tập thơ Mùa thiêng). Có thể nói, “giao cảm mùa” là một kiểu nhiệt hứng, một sắc diện hồng tươi trong thơ Đặng Cương Lăng.
Những “cột mốc” đánh dấu chặng đường thơ Đặng Cương Lăng, theo tôi là các tập thơ: Trở về - Khát vọng - Mùa thiêng - Hạt lúa, phận người - Giọt đời - Lá biếc - Một tôi cộng một. Bảy trên mười bảy là ít hay nhiều, không quan trọng ở con số (nghệ thuật ăn nhau ở định tính hơn định lượng); quan trọng hơn ở sự biểu đạt đường đi nước bước của thơ Đặng Cương Lăng ngày càng đằm dần về cấu tứ và chữ nghĩa. Thơ anh, có thể nói, chín dần theo thời gian trải nghiệm sống và trải nghiệm văn hóa.
Nhà thơ Đặng Cương Lăng
Cộng một... thành thơ
Nhưng đến Một tôi cộng một, nhiệt hứng và cảm thức sống của người thơ ở tuổi ngoài lục thập đã vô tình (hay hữu ý) hướng ngòi bút vào những vấn đề nhân tâm thời đại. Hãy xem cách Đặng Cương Lăng “cộng một thành thơ” theo kiểu nào? Thế giới hiện đại, trong cõi nhân sinh ở chốn trần gian vẫn cứ nóng hôi hổi chuyện “riêng - chung”, “tôi - ta”, thế nên người thơ cứ đau đáu: “Và tôi cộng một ...là ta/ Trái đất vẫn một mái nhà, bạn ơi/ Cùng chung số phận con người/ Hôm nay khóc, ngày mai cười, thế thôi/ Và tôi cộng một...còn tôi” (Và tôi cộng một...).
Cấu tứ “tôi - ta” này thấm nhuần đến tận chân tơ kẽ tóc nghĩ suy, xúc cảm, thể hiện trong những sắc thái rất khác nhau tùy cảnh ngộ, tâm trạng. Nghệ thuật dĩ nhiên là nơi chốn biểu đạt cái “tôi”, nơi trưng bày cách thức và trình độ cá thể hóa sâu sắc. Thậm chí ngày trước thi sĩ Xuân Diệu còn riết róng đến độ: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất/ Không có chi bè bạn nổi cùng ta” (Hy Mã Lạp Sơn, 1935-1941). Nay nói thế thì vẫn không sai nhưng không đủ sức thuyết phục nhiều nữa khi “Trái đất là ngôi nhà chung của thế giới”. Vậy nên chừng hai mươi năm sau, cũng vẫn Xuân Diệu của cái “tôi” ngất ngưởng đã chuyển hướng cảm xúc đến Riêng chung (1960) - tập thơ đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong đường thơ, hành trình thơ Xuân Diệu. Sắc thái “một tôi” trong thơ Đặng Cương Lăng suy cho cùng là tính chất duy tình, bởi: “ Một tôi... ở giữa một tôi/ Sâu đậm chữ hiếu, xanh tươi chữ tình/ Một tôi... tôi gọi bình minh/ Để tia nắng mới lung linh đất trời. (...)/ Một tôi...không hẳn tôi đâu...” (Một tôi).
Càng có tuổi, người thơ càng mở lòng mình, bề ngoài là “hướng ngoại”, nhưng sâu thẳm là kết nối “hướng nội” và “hướng ngoại”. Vậy nên trong thơ Đặng Cương Lăng, nay người đọc thấy hiển hiện nhiều hơn những “xuân thì”: Chở mùa xuân, Niềm xuân, Xuân vơi, Trở về với trong veo, Hoa mai; đặc biệt là chùm thơ về Đà Lạt (Thung lũng, Đà Lạt - Hoa, Sương rơi). Cấu tứ “vơi đầy” trong càn khôn tạo hóa và cõi nhân gian khiến cho thơ Đặng Cương Lăng không rơi vào “tả” cảnh hay “kể” nỗi niềm.
Vượt lên câu chữ là sự biểu đạt sâu sắc và tinh tế những suy tư về kiếp người hữu hạn trong vũ trụ vô hạn. Tuy con người bé nhỏ trước tự nhiên nhưng lại có vị trí quan trọng và xứng đáng trong sự tuần hoàn của tự nhiên, dẫu cho tự nhiên đôi lúc vô tình, nhưng con người nếu biết sống thuận theo lẽ tự nhiên thì tránh được sự chung chiêng, thậm chí tan rã đáng tiếc. Tình trạng này đã có lúc có nơi xảy ra trước đây. Con người thông minh là biết tự điều chỉnh, điều hòa cái bản thể của mỗi cá thể trước mênh mông vũ trụ. Vì thế mà người thơ mới chợt thảng thốt nhận ra “Vui buồn bất chợt/ Xuân đầy... xuân vơi” (Xuân vơi).
Những sắc màu thơ
Ý nguyện được thành thực là sắc thái thẩm mỹ rõ rệt trong thơ Đặng Cương Lăng. Dường như khi làm thơ, tác giả không hề bị gò bó niêm luật, thể thức để nhằm chỉ cốt phô bày được hết những suy tư, cảm xúc. Tuy nhiên, do chỗ muốn đi cho tận cùng tới đích cảm thức của mình nên đôi khi tác giả rơi vào “bẫy việt vị” (tức là chạy quá vị trí cần thiết). Thành thử chữ thơ hóa ra đơn giản, kiểu như: “Núi đứng chôn chân thành bất động/ Sông nằm không chảy hóa sông vơi/ Không mang nổi những gì cao rộng/ Nước mắt nào nhỏ xuống xanh tươi” (Động hay tĩnh). Nhưng may mắn, những “bẫy chữ” như thế là cá biệt trong tập thơ mới nhất của Đặng Cương Lăng. Quán xuyến hơn cả là một cách thức làm thơ “duy tình”.
Không câu nệ hình thức khi làm thơ, nên nhìn chung thơ Đặng Cương Lăng luôn ở thế tự do, năng động, phóng khoáng, phá cách. Đọc và ngẫm về thơ anh, lần này tôi thấy người thơ có cái tâm thế tự do được là mình khi trên đầu tóc đã điểm sương, thăng trầm đời người đã trải, nên mỗi câu chữ đều đong đầy hoài niệm của một người có đủ điều kiện để “ngoảnh lại”, không phải để “ngắm” hay “nhắm”, mà để suy nghiệm lẽ đời, tình đời, như cách người ta nói là nhân tâm thời đại.
Ngay từ tập thơ đầu tay (Trở về), đến tập thơ mới nhất (Một tôi cộng một), Đặng Cương Lăng nghiêng (thích) điệu nói trong thơ. Điệu nói, tuy nhiên không phải là một hình thức ngôn từ dân dã nhằm để đạt tới đại chúng trong khái niệm “văn học đại chúng”. Cơ bản, theo tôi, là từ cái “tạng văn” (phần nhiều cũng xuất xứ từ “tạng người”, như cổ nhân vẫn thường nói “nhân tâm tùy mạng mỡ”).
Những bài thơ đậm đặc “điệu nói lớn” trong tập thơ mới của Đặng Cương Lăng: Biết chia, Động hay tĩnh, So đo, Thời covid, Thật-giả, Tòa... Nhưng ngay trong điệu nói thơ, bỗng nhiên một lần Đặng Cương Lăng “trở gió” - nói nhỏ, như là tâm tình với những ai đó lâu nay được coi là “giang hồ lữ thứ”. Nhưng hóa ra “thương hồ” cũng là những người không chỉ biết ăn sóng nói gió, chỉ chuyên xê dịch, mà cũng biết (thích) thủ thỉ tâm sự: “Thương hồ lang bạt đó đây/ lấy thừa đắp thiếu/ lấy đầy bù vơi/ Quen ăn đứng/ quen ngủ ngồi / Dưới trời trên nước tứ thời mông lung/ bao năm quen thói vẫy vùng/ Đói no no đói/ đã từng/xá chi/ Người đây/ kẻ đó/lắm khi/ Giời ơi /sum họp/ chia ly/ chuyện thường/ Muôn lối rẽ/ một ngả đường/ Thương hồ trôi dạt muôn phương/ thương hồ” (Thương hồ).
Tôi hình dung Đặng Cương Lăng là người thơ nhẫn nại “gom” những yêu thương, hy vọng, để chắt chiu cái đẹp của đời sống và con người: “Gom cho mãi mãi sinh sôi/ Gom ao thành biển gom chồi thành non/Gom cho nắng sớm chiều hôm/ Gom vui thì nhớ gom buồn thì quên/ Gom cho tươi những nỗi niềm/ Gom mưa thành nắng gom đêm thành ngày/ Gom cho xanh biếc đất này/Gom bao tình nghĩa đổi thay đất trời” (Gom).
Có người nói với tôi, anh hãy phê bình chỉ một câu về thơ Đặng Cương Lăng? Thật làm khó nhau quá. Nhưng nếu ai đó đã hỏi, thì tôi xin trả lời: thơ của người thơ này hồn nhiên, mộc mạc, chân chất, duy tình, thuận theo tự nhiên. Không tin thì, xin mời quý vị yêu thơ đọc trực tiếp tập thơ mới nhất của nhà thơ Đặng Cương Lăng - Một tôi cộng một.
Bình luận