Trường làng

Bố tôi chỉ học đến Sơ học yếu lược thời Pháp thuộc. Nhưng cụ đã nói được tiếng Pháp, chữ bố tôi rất đẹp, toàn viết nghiêng (hình như ngày xưa người ta không dạy học trò viết đứng thì phải), chữ của tôi và chữ của các con tôi bây giờ thua xa chữ bố tôi. Hồi trước, học đến Sơ học yếu lược đã được xem là “người tài của làng”, được miễn phu phen và hưởng nhiều biệt đãi của làng.

Có lẽ do “có học” cho nên bố tôi rất chú ý đến chuyện học hành của con trai. Hồi tôi lên sáu, cổ còn đeo chiếc vòng bạc mà hầu như đứa trẻ con nào ở làng tôi cũng có (để tránh gió - người ta bảo vậy), bố tôi đã gửi tôi cho thầy giáo Minh, một thầy giáo làng, nhờ thầy dạy tôi học vỡ lòng. Sau đó tôi lại học tư với thầy giáo Đắc, nhà thầy ở tận làng Đầm, cạnh đập Bái Thượng, huyện Thọ Xuân, cách làng tôi chừng 50km.

Thầy Đắc rất nghiêm khắc, chúng tôi vẫn bảo thầy ác khi thầy sử dụng những hình phạt kiểu nhục hình đối với học trò. Trên bàn thầy bao giờ cũng có sẵn một cái thước lim bốn cạnh. Học trò nào không thuộc bài ngay lập tức thầy gọi lên đứng cạnh bàn, bắt chụm năm đầu ngón tay lại, rồi thầy dùng thước lim đập thật mạnh vào năm đầu ngón tay đang chụm lại đó, đau điếng người, nhưng không dám kêu. Trò nào sợ, rụt tay lại, làm thầy đánh hụt, thì thầy nện càng mạnh hơn và càng hăng hơn. Còn nếu học trò nào nói chuyện riêng trong giờ học thì thầy gọi lên bảng, dùng que tre chống giữa hai hàm răng, miệng há hốc, không thể ngậm lại được, không thể nói được nữa, và bắt đứng trong trạng thái như vậy cả giờ đồng hồ. Đứa con trai nào mà nghịch trong giờ học thì thầy gọi lên, bắt chui qua háng con gái, để cho hắn bị xấu hổ, lần sau chừa, không dám nghịch trong giờ học nữa.

Trường làng - 1

Một lớp học thời kháng chiến (ảnh minh họa). Nguồn: Tư liệu

Dẫu vậy, ngày nào cũng có mấy học trò bị ăn phạt vì nghịch, “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” mà. Các bậc phụ huynh, ai cũng biết thầy giáo hành hạ con mình. Nhưng hồi đó, do tôn sư trọng đạo, vả lại uy thế của thầy giáo rất lớn, dù chỉ là thầy giáo làng, cho nên không phụ huynh nào dám kêu ca phàn nàn, nhiều người còn cho đó là chuyện bình thường, thậm chí là cần thiết, vì có yêu trò thì thầy giáo mới “cho roi cho vọt”.

Hồi tôi học cấp một, các lớp học đều học nhờ ở nhà dân thuộc xóm Lãng Trung làng tôi. Các gia đình bà Như, anh cò Hệt, ông Khoán, ông Xoang… nhường hẳn ba gian nhà trên rộng rãi cho các lớp học của chúng tôi. Hồi đó lớp học không có bàn ghế đàng hoàng như bây giờ. Học sinh phải tự sắm bàn học, gọi là “bàn tự túc” và hằng ngày từng học sinh phải tự mình mang bàn đến lớp. Bàn học hồi đó là một tấm gỗ mỏng, dài khoảng 80cm, rộng khoảng 60cm, có nẹp chung quanh để có thể làm điểm tựa chống chân bàn. Bàn có bốn chân bắt chéo nhau, nối với nhau nhờ một trục ngang ở giữa, có thể mở ra gập vào, xếp vào mặt dưới của bàn. Một hộp gỗ vừa dùng làm ghế ngồi, vừa dùng đựng sách vở. Hộp gỗ này được cài vào hai chân bàn khi bàn được xếp lại thành một khối vuông gọn. Một đai đeo nối hai cạnh bàn với nhau để học trò có thể đeo bàn vào người khi đến lớp và khi tan học ra về.

Hồi những năm 1952 – 1954, máy bay Pháp thường xuyên ném bom bắn phá vùng tự do Thanh Hóa. Một buổi học có khi chúng tôi phải chạy ra các hầm trú ẩn đào chung quanh lớp để tránh máy bay địch đến ba - bốn lần liền. Có những đợt máy bay oanh tạc dữ dội, thầy giáo phải đem chúng tôi ra ngồi học ở dưới các gốc cây to, chẳng hạn cây đa, cây vải, tán rộng, cành lá xum xuê, để tiện tránh máy bay địch, đề phòng làng bị ném bom. Cũng có thời gian, để tránh máy bay địch, chúng tôi phải học ban đêm. Tối tối, vai đeo bàn, tay xách đèn chai, tôi đi đến lớp học. Khi tan học, ra về, trời tối như bưng, tôi rất sợ ma, cho nên tôi cứ phải vừa đi vừa nện hai đầu gối vào mặt bàn tự túc, tạo ra tiếng động, cho đỡ sợ, để thêm tự tin đi về nhà.

Trường làng - 2

Lớp học thời kháng chiến (ảnh minh họa). Nguồn: Tư liệu

Những năm tôi học cấp một là những năm cực kỳ khó khăn. Khó khăn đủ đường. Sách giáo khoa hầu như không có. Bài vở chỉ có chép tay. Các ngón tay tôi vấy đầy mực tím, nom rất bẩn. Để có giấy, bút, mực, không đơn giản chút nào. Mỗi lần khai giảng mẹ tôi phải bán thúng thóc để có tiền mua giấy bút cho tôi. Giấy bình dân, mực tím, bút chì, ngòi bút, quản bút, tôi mua ở quầy hàng xén chợ quê. Để khắc phục khó khăn thiếu giấy viết, chúng tôi đã có sáng kiến đem giấy đã sử dụng, tức là giấy đã viết, ngâm vào nước vôi một vài hôm để xóa chữ, vớt ra phơi khô rồi sử dụng lại, gọi là “giấy tái sinh”. Tuy nhiên cách làm này không thật sự hiệu quả, khi chữ viết trên giấy ngâm nước vôi thường bị nhoè...

Đã 70 năm trôi qua, nhưng tôi vẫn không quên những ngày tháng cam go thời tôi học cấp một phổ thông ở vùng quê nghèo Thanh Hoá.

Truyện ký của Lê Bá Thự

Tin liên quan

Tin mới nhất

Giá vàng được dự báo tăng cao kỷ lục, nhà đầu tư nên điều chỉnh danh mục thế nào?

Giá vàng được dự báo tăng cao kỷ lục, nhà đầu tư nên điều chỉnh danh mục thế nào?

Báo cáo “In Gold We Trust 2025” cảnh báo hệ thống tiền tệ toàn cầu đang ở giai đoạn khủng hoảng niềm tin, khi vàng nổi lên như một nơi trú ẩn an toàn trong bối cảnh nợ công tăng cao và lạm phát dai dẳng. Các nhà đầu tư dần chuyển dịch khỏi tiền pháp định sang tài sản thực – trong đó vàng đóng vai trò trung tâm.

Đồng USD suy yếu, giảm tháng thứ năm liên tiếp, sắp tới sẽ ra sao?

Đồng USD suy yếu, giảm tháng thứ năm liên tiếp, sắp tới sẽ ra sao?

Đồng đô la Mỹ đang trên đà khép lại tháng thứ năm liên tiếp suy yếu, khi giới đầu tư ngày càng lo ngại về các chính sách thương mại thiếu nhất quán và tình hình tài chính không ổn định tại Mỹ. Trong khi đó, các đồng tiền của thị trường mới nổi lại ghi nhận đà tăng mạnh nhất trong nhiều tháng qua.