"Ngắn dần đều” - Xóa trắng để tái sinh
Trước khi đầu quân về Nhà số 4 - Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Hoàng Đăng Khoa đã có 14 năm dạy học ở quê nhà Quảng Bình, đó chính là lí do vì sao mỗi chữ anh viết ra đều chín chắn và nghiêm cẩn. Hiện tại anh là Trưởng ban Lý luận phê bình của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Ủy viên Hội đồng Lý luận phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam. Dù viết văn, làm thơ hay phê bình, Hoàng Đăng Khoa vẫn tạo cho mình một giọng điệu độc đáo. Những con chữ của anh không ngủ, giống như cha đẻ của nó miệt mài trong cõi lao động khổ hạnh, để mỗi trang anh viết ra là mỗi giọt phù sa tâm hồn. “Ngắn dần đều” (NXB Đà Nẵng - 2024) là một tập tiểu luận như thế. Đứa con thứ 8, trong hành trình đi sâu vào chính mình, tìm mình và Hoàng Đăng Khoa đã gặp.
Nhan đề tác phẩm, tự nó đã là một ẩn dụ về thi pháp sáng tạo của Hoàng Đăng Khoa. Ở cuốn sách này, anh đã có một thử nghiệm riêng. Với Khoa, lặp lại mình là một cái chết tinh thần của kẻ mang vác cây quyền trượng sáng tạo. Nên trong suốt thời gian dạy học ở quê hương, anh luôn là một người thầy đổi mới, ngõ hầu kiến trúc tâm hồn học trò không theo khuôn mẫu. Tôi đồ rằng, ấy là khoảng thời gian anh chuẩn bị cho bước đi của mình tới mãi sau này. Khoa là một người khó khăn với chính anh, nên mỗi chữ anh viết ra đều có những lằn roi sáng tạo. Sự rậm rì của thông tin như hiện nay, luôn đặt ra cho người viết những thách thức. Và Khoa cũng tự tìm cho mình những cơ hội. Ngắn dần đều tàng ẩn những kí ức, hiện tại và khát vọng. Mỗi bài viết của anh là một sự cô lắng, hàm súc, giàu trữ lượng hàn lâm của nhà phê bình, nhưng cũng đủ cảm xúc chất chứa của một thi sỹ.
“Núi Thúy vết chồng vết cổ nhân/ anh đang dọn dẹp mình chờ ngày xóa trắng”, Hoàng Đăng Khoa đã chọn hai câu thơ này trong bài thơ Thoáng đậu Ninh Bình của anh để làm lời đề từ cho tác phẩm Ngắn dần đều. Khoa như một cánh chim, đậu trên dấu vết tiền nhân, đó như một di chỉ nghệ thuật - lịch sử trong dòng chảy bộn bề. Ngọn núi qua bao dâu bể vẫn xanh, trầm mặc và thản nhiên, người nghệ sĩ cũng thế, có những vết khắc cuộc đời, mỗi vết là mỗi hiện diện tâm hồn anh ta ở những khoảnh khắc bất định cần phải dọn dẹp. Khoa khao khát xóa trắng, để mình trở nên Những tờ sạch, mà mỗi khi anh đặt bút là mỗi bắt đầu mới mẻ.
Bìa tiểu luận "Ngắn dần đều".
Cuốn sách này đặc biệt ở chỗ, mỗi tiểu luận đều có một lời đề từ, ấy như một đường dẫn đến tâm chữ. Đọc Khoa, tôi thấy, sau viết thì đọc hiểu là một hình thức sống khác trong cõi sáng tạo của anh. Vì ở cuốn sách này, gót chân Khoa đi trong im lặng. Khi anh lật tung những vạt kí ức, lúc lại sôi nổi vấn đề thời sự, khi là một tổng kết hay dự báo tương lai. Mỗi tác phẩm, tác giả qua con mắt Khoa, với tôi có nhiều điều mới mẻ.
Hoàng Đăng Khoa bắt đầu cuốn sách này, bằng Nghệ thuật của cái nhìn, qua lối ví von nồng nàn “người tình như bài thơ/ đọc một đời không hết”. Anh đặt ra lằn ranh giới giữa sống và chết của người nghệ sỹ. “Sống rực rỡ như những đóa hoa, hay là sống mà như qua đời, đó là vấn đề - vấn đề của sự lựa chọn cách sống, cũng là lựa chọn cách nhìn về đời sống”. Cái cách biến mình thành ngọn lửa để mỗi lần cầm bút là mỗi khoảnh khắc bước lên giàn thiêu, để sau đó là tái sinh. Trong khi, lựa chọn lối viết nhợt nhạt bằng phẳng, khác gì thủ tiêu mình. Ernest Hemingway chẳng đã từng kết thúc đời mình bằng một phát súng khi thấy mình không còn đủ sức “viết một áng văn xuôi trung thực và đơn giản về con người” đấy thôi. Nghĩa là Khoa đã mang cái nhìn hồn nhiên, ban sơ của mình vào thế giới nghệ thuật. Sau mỗi lần viết, anh lại xóa trắng. Có lẽ anh đã được tạo hóa ân điển, đồng nghĩa với việc bị trời đày. Điều háo hức, sự mới mẻ, rung ngân trọn vẹn chính là cơ hội của chữ. Anh xác quyết cho mình thi pháp sáng tạo ấy, và khẳng định đó chính là con mắt của người nghệ sĩ. Khoa đưa vào bài viết nhiều con mắt nghệ thuật, từ cổ chí kim, từ đông sang tây. Những con mắt xanh, non tơ. Như cách ta nhìn người tình, mỗi ngày là mỗi khám phá vẻ bí ẩn, hấp dẫn, rất thơ.
Và con mắt ấy khi nhìn vào đời sống nghệ thuật, Khoa đã đưa ra quan điểm cá nhân, mang tính phản biện cao. Nhưng tôi tin, khi đọc bài viết, nhiều người sẽ bị anh thuyết phục bởi lý lẽ xác đáng và cái nhìn nhân văn. Anh đặt vấn đề Người viết trẻ có đáng bị bắt bẻ? Anh bày tỏ góc nhìn của mình vào những câu thơ “- này gạo,/ ngươi còn có tên là mộc miên/ pơ lang?/ - nhiều tên tuổi rất làng nhàng”. Để bài viết đạt độ khả tín, Khoa đã rộng đường bằng cách dẫn lời của nhiều nhà văn nổi tiếng trên thế giới. Như vậy, anh không áp đặt chủ quan cho bài viết của mình, mà tạo một kênh mở, để đối thoại.
Thực ra, viết là cách đào sâu vào bản thể. Nhà văn ưa trải nghiệm, theo cái cách của Nguyễn Tuân “xê dịch để thay đổi thực đơn cho giác quan”. Hơn thế, có tác giả đi để tìm thấy mình ở trùng kiếp trước, và ở đó họ tìm thấy mình trong suốt xâu chuỗi thời gian. Nếu nhà văn chỉ viết về người khác, ấy là khi anh ta bỏ quên chính mình. Như Khoa đã dẫn lời của nhà văn Orhan Pamuk, “văn chương đơn giản là cho nhà văn cơ hội cứu vãn một ngày khó ở; rằng để vui sống mỗi ngày ông phải dùng một liều văn chương”.
Khoa đặt niềm tin vào người trẻ và sự thành thật của họ khi trải bày lòng mình. Chẳng ai già mà không từng trẻ, cũng như để đạt tới độ chín, con người ta từng đi qua bao bồng bột. Khoa không xóa trắng kí ức trẻ dại của anh, mà anh trân trọng thuở ban đầu nguyên sơ ấy. Để nhìn vào nó, anh biết mình đang ở đâu. Bởi thế, Khoa đặt niềm tin vào người trẻ, khích lệ sự bùng nổ bồng bột trong ngòi bút của họ.
“Trẻ là tài sản” - Hoàng Đăng Khoa đã đặt nền móng chắc chắn như thế cho những cây bút trẻ. Viết là một sự dấn thân, một cuộc tuẫn mình. Bởi nghĩ là một bí mật trong chiếc rương tâm hồn, thì viết lại là cuộc đại phẫu tinh thần. Khi cầm ngọn bút trong tay, đồng nghĩa với việc, tác giả phải đương đầu với bản ngã và dư luận. Nếu không đủ tỉnh táo và bản lĩnh, có thể khoảnh khắc bắt đầu cũng chính là thời điểm cáo chung của một người viết. Nhưng khi Người viết trẻ tự vẽ những đường bay, theo cách “sở hữu tự do” thì họ “sẽ biết cách thả những nhịp cầu”. Hoàng Đăng Khoa ví von họ như cánh “hải âu” báo tin xuân. Anh thấy “tính chất nhiều màu, lắm vẻ, mức độ bao sân chiếm sóng của người trẻ”, “cuộc hăm hở đi tìm mặt (chữ của nhà thơ Hoàng Hưng) của những chủ thể nội lực, cá tính, tự tôn lược phổ cá nhân giữa tổng phổ tha nhân… Mỗi người viết trẻ hôm nay là một người chữ nên đều trình hiện mình đầy bản lĩnh tự tin với phông nền văn hóa văn chương triết mĩ vững chắc”.
Không chỉ dành thiện cảm cho người viết trẻ, Khoa còn quan tâm sâu sắc đến thân phận người phụ nữ. Bởi trắc ẩn là tài sản tâm hồn của người viết. Khoa tiêu sản cho hai cây bút nữ: Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thúy, và rồi anh tích sản được Biểu đạt giới trong “Cánh đồng bất tận” và “Chúa đất” - những tương đồng gặp gỡ. Ở đó Khoa đã đầy trong ánh sáng và bóng tối mê hoặc của “những khúc bi ca về thân phận kiếp đàn bà, những khúc hoan ca về khoái lạc và tinh thần nổi loạn, những khúc tụng ca về nhân vật nữ tận thiện tận mĩ”. Tôi quả quyết rằng, anh đã dành cho vẻ đẹp của tạo hóa ấy những lời nồng nàn, say đắm nhất, như một thứ rượu của nhân gian.
Với Khoa, thế giới của nhân vật nữ đầy vết xước, khôn nguôi ám ảnh, cơn nhục cảm bất tận, một tình ca không bao giờ đặt dấu chấm. Đọc hai cây bút nữ Nguyễn Ngọc Tư và Đỗ Bích Thuý, anh có cái nhìn của một người đàn ông đầy thấu hiểu, mà xót xa trước những góc khuất đời sống đàn bà. Chỉ vậy thôi, đã đủ vơi bớt những đau đớn “từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người” (Trịnh Công Sơn) của nhân vật của họ. Những Nương, mẹ của Nương, những người đàn bà Bàu Sen, Vàng Chở… và rất nhiều đàn bà khác mà ta gặp họ đó đây, trên gương mặt, tâm hồn, khuôn ngực hay trong những xó tối cuộc đời vô danh, họ cất lên những phức âm thân phận đầy dậy cảm. Có thể là một vang vọng cô độc nơi đầu sông bãi sú, núi cao vực sâu, đó có thể là một tiếng thét rạch đôi mình để hạ sinh những bi kịch thế gian. Họ, những người đàn bà không tô son hàng ngày, nhưng đêm đêm vẫn chờ đợi được mở cửa căn phòng trống trải để đón người đàn ông của đời mình. Khoa đã viết về đàn bà như thế, “những diễn ngôn về con người với tất cả tình yêu thương và niềm tin không tắt vào tính bản thiện của con người”. Đó là một phức cảm, một dịu dàng, một đa đoan, hào hển mà bừng thức, đàn bà - đẹp và u uẩn, một nỗi buồn da diết không tên.
Hoàng Đăng Khoa là một thi sĩ, với anh Thơ là hơi thở. “Thơ có trước mọi định nghĩa, và thơ vừa ở trong vừa ở ngoài mọi định nghĩa”. Vì thế anh viện dẫn những những câu thơ gắn với tên tuổi nổi tiếng trong lịch sử thơ ca Việt Nam, như Nguyễn Du, Tố Hữu, Xuân Diệu, Thu Bồn, Lưu Quang Vũ, Tô Thùy Yên, Lâm Thị Mỹ Dạ… Nhưng Khoa còn gọi tên hai tác phẩm Bả giời và Hoan lạc của Nguyễn Bình Phương và Mạc Ngôn, anh cho rằng “người đọc có thể định danh đó là tiểu thuyết ngắn, cũng có thể coi là hai bài thơ dài. Đẹp như nỗi buồn của/ về người trẻ”.
Buồn là chất liệu để thi sĩ sáng tác thơ. Như Hoàng Nhuận Cầm từng viết rằng “Tôi có đủ nỗi buồn để sống/ Nhưng nếu không buồn có lẽ buồn hơn”. Khoa lại đưa ra lí lẽ “nỗi buồn muôn đời là yếu tính của đời, là lí do cất tiếng của thơ. Và thực tại có thể được nới giãn, bằng giấc mơ, bằng khao khát, bằng tưởng tượng, bằng yêu thương, bằng chạm gặp”. Trong những cơn sang thương, con người đã cầm máu bằng những vần thơ. Vì Khoa chắc chắn rằng “thế giới này, tự khởi thủy, đã mang đầy thương tích. Mỗi con người, với tất cả ý nghĩa hiện sinh của nó, đều là nhân vật đa chấn. Và thơ chính là… một phương cách khâu vết rách và xoa vết thâm”. Thì chính Khoa cũng đã tự hàn vá bằng những khoảnh khắc để cảm xúc tràn đầy thành những con chữ mà tâm hồn cuống quýt uống lấy.
Hoàng Đăng Khoa đi sâu vào nỗi buồn. Người chết ngang và đóa buồn văn chương nở dọc, là cách Khoa tiếp cận “nỗi buồn tươi sáng” (Belinxki) trong văn chương. Chừng nào còn hơi thở, chừng đó người nghệ sĩ còn buồn. “Họ đặc biệt khoái cảm với nỗi buồn, đong đưa hưng phấn cùng nỗi buồn, thậm chí xem bất hạnh là một tài sản. Viết là cách nhà thơ khỏa thân cho thế giới thấu thị lõa lồ niềm nỗi”.
Tác giả Hoàng Đăng Khoa.
Trong từ điển đọc của Khoa thêm vào từ “chết ngang” - “Là cái chết được trì hoãn, trì hoãn đến chừng nào trữ đủ đau thương cho mãn hạn làm người, như cách nói của nhà thơ Trần Dần. Có nghĩa, chết ngang là chưa chết, là đang sống”. Và từ những lần “chết ngang” ấy, sẽ có trổ những nỗi buồn lộng lẫy. Nỗi buồn như ngọc, sẽ đi cùng người thơ cho đến khi họ kết thúc sứ mệnh trời đày.
Lang thang trong cõi Ngắn dần đều, tôi bắt gặp những chủ đề thú vị, mở ra nhiều chiều liên tưởng. Không chỉ nói về cách viết, Hoàng Đăng Khoa còn hé lộ việc Nhà văn thì đọc gì. Nếu viết là nghiệp thì đọc là nghề của họ. Thực ra nhà văn rất cần công chúng. Vì trong số họ sẽ trở thành bạn đọc đồng sáng tạo với tác giả. Nói như Khoa “mọi văn bản đều là liên văn bản/ tư tưởng chỉ phát sáng khi cọ xát vào nhau”. Những cuộc gặp gỡ định mệnh sẽ khai sinh những tri kỉ văn chương. Bởi vậy nhà văn phải đọc nhiều, để thâu nạp và hiểu. Đọc cũng chính là một hình thức học của họ. “Nhà văn phải thâu nạp bách khoa tri thức đông tây kim cổ để có thể trở thành một người chữ, nơi mà đến lượt, từng con chữ được chiết xuất ra đều đẫm trĩu hàm lượng thông tin, tri thức. Thứ chữ như thế gọi là sinh ngữ, đầy sức sống, sức tác động, mê dụ, công phá”. Nhưng văn chương vẫn là thứ mê dụ họ hơn cả. Họ “đọc thế giới từ bản chất bên trong, từ tầng đáy rộng rinh và thẳm sâu nhất của nó, để kháng cự lại cái thế giới nóng vội, nông cạn bề ngoài mà ồn ào này… Đọc văn là chìm đắm tuyệt đối vào tâm hồn tác phẩm, là gặp nhân quần, để tự huyễn hoặc, rằng thì ra ta không hề cô đơn”.
Nhà văn đọc để hiểu, để viết, để sáng tạo. Họ - những thư kí trung thành của thời đại, không có nghĩa là copy paste mà là cách viết lên một đời sống mới trong văn chương. Và với nhà văn tài hoa thì đời sống đứa con tinh thần của họ sẽ dài hơn cuộc đời cha đẻ của nó.
Trong ngót 300 trang cho thể loại tiểu luận, chỉ dung lượng đã cho thấy sự công phu và những giọt mồ hôi của Hoàng Đăng Khoa. Lối viết tự do, phóng túng trong cảm xúc nhưng được ghim trong khuôn khổ của sự đào sâu nghiên cứu. Những viện dẫn kĩ càng, xác đáng chứng tỏ năng lực đọc hiểu và sáng tạo của người viết. Đọc Khoa, tôi không chỉ sáng thêm ở cách anh gợi mở ý tưởng, phóng chiếu cách hiểu thuật ngữ khoa học mà còn được bồi dưỡng vốn từ khoáng hoạt, chắc và mới mẻ.
Ngắn dần đều nhưng giá trị khơi mở của cuốn sách không nằm lại ở dung lượng. Nó đem đến cho tôi cảm xúc về nguồn khoáng chữ không bao giờ cạn của Khoa. Tác phẩm là một cuộc đi xuyên qua không gian, thời gian. Một đứa con khôi ngô, đĩnh ngộ của Khoa. Vì nó mà anh luôn khao khát được có thêm những cuộc hạ sinh bất tận. Vì Khoa yêu chữ và quá yêu cuộc đời này. Hoàng Đăng Khoa - kẻ chơi chữ bị trời hành, một lối bạo lực của tinh thần nghệ thuật mà không ít kẻ dấn thân vào cõi viết mong rằng mình được nhận một vết chấn thương như thế - một chết ngang để đóa buồn văn chương nở dọc.

Ai cũng có một thời tuổi trẻ đẹp tươi tràn trề ước mơ, khát vọng nhưng sự khắc nghiệt của thời gian không cho ai giữ...
Bình luận