Dương Thị Xuân Quý - Nhà báo, Nhà văn liệt sỹ
Nhà báo, nhà văn liệt sỹ Dương Thị Xuân Quý (1941-1969) hi sinh tại chiến trường miền Nam trong khi đang tác nghiệp tại mặt trận ở tuổi 28 phơi phới thanh xuân, đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị cùng tấm gương ngời sáng của một nhà báo, nhà văn – người chiến sỹ quả cảm, người mẹ yêu con vô bờ nhưng bị chiến tranh chia cắt.
Dương Thị Xuân Quý quê quán thôn Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, xuất thân từ một dòng tộc trí thức yêu nước, gắn với hoạt động báo chí, văn chương. Từ cái nôi văn hoá ấy, nhà văn nhà báo Dương Thị Xuân Quý đã đến với văn nghiệp báo chí một cách tự nhiên.
Nhà báo Dương Thị Xuân Quý.
Trước khi trở thành phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam năm 1959, Dương Thị Xuân Quý lúc còn là học sinh phổ thông đã là cộng tác viên của báo Tiền phong, Thiếu niên Tiền phong. Sau khi tốt nghiệp Phổ thông Trung học, Dương Thị Xuân Quý vào học lớp Trắc địa mỏ, Trường Trung cấp Kỹ thuật II, Quảng Ninh. Tại đây, Xuân Quý đã nổi tiếng là một nữ sinh văn hay chữ tốt và là thông tín viên của báo Tiền phong và Lao động.
Lúc này Xuân Quý chưa có tác phẩm nào đặc sắc, nhưng nhờ lối giao tiếp nhẹ nhàng, chân tình, cởi mở và hiểu biết rộng, Xuân Quý đã làm cho không ít trái tim thanh niên vùng mỏ thổn thức. Nhờ sự động viên khích lệ của anh Khắc Lượng, Thư ký Tòa soạn báo Văn nghệ vùng mỏ lúc đó, Xuân Quý bước đầu đã có một số bài báo sắc sảo và một số truyện ngắn, đáng đọc. Giữa lúc Xuân Quý đang miệt mài học tập năm thứ hai, báo Phụ nữ Việt Nam cử người xuống xin Dương Thị Xuân Quý về công tác tại báo và cử đi học nghiệp vụ báo chí.
Sau nhiều đêm mất ngủ, vì phải xa vùng mỏ thân yêu mà bà đã từ đầu quyết định sống và viết lâu dài ở đây. Nhưng cuối cùng Dương Thị Xuân Quý quyết rời vùng mỏ về Hà Nội theo học lớp báo chí, rồi trở thành phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam năm 1960 đến năm 1968. Là một phóng viên năng nổ, với cá tính mạnh mẽ, Xuân Quý đã có mặt ở nhiều vùng nông thôn miền Bắc. Có bầu đến tháng thứ 6, bà vẫn về vùng Quảng Nạp (Thái Bình), đi cày, đi gặt cùng bà con xã viên để vừa viết báo, viết văn. Những đồng nghiệp báo Phụ nữ Việt Nam biết một Xuân Quý cứng cỏi, xông xáo, đã định đi đâu, để tìm hiểu thực tế, thì dù có mưa to gió lớn cũng đi. Đi về là miệt mài viết, không có điện, thắp đèn dầu, mặc cho muỗi đốt, viết xong mới đi ngủ.
Trong thời gian làm phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, khi giặc Mỹ ném bom miền Bắc, bà đã có mặt ở các trọng điểm Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Tháng 4 năm 1968, Dương Thị Xuân Quý tình nguyện vác ba lô vượt Trường Sơn vào chiến trường Trung Trung Bộ, để lại đứa con đầu lòng và duy nhất mới 14 tháng tuổi cho mẹ chăm nuôi (trước đó 1 năm chồng bà, nhà thơ Bùi Minh Quốc đã vào chiến trường chiến đấu). Nuôi con trong hoàn cảnh ấy đã khó khăn rồi. Vậy mà bà vẫn quyết định gửi con lại cho mẹ để vào chiến trường, một nơi gian khổ khó khăn và nguy hiểm gấp bội lần so với cuộc sống của một phóng viên miền Bắc.
Chỉ một thời gian ngắn ở chiến trường, giữa đợt gùi, cõng lương thực, phát rẫy, giữa những trận mưa bom B52 của giặc Mỹ và trong sự hành hạ của những cơn đói, sốt rét... Dương Thị Xuân Quý đã tranh thủ viết được truyện ngắn “Hoa rừng” và nhiều bút ký “Tiếng hát trong hang đá”; “Gương mặt thách thức” và “Niềm vui thầm lặng”. Những tác phẩm này được các cán bộ lãnh đạo văn nghệ Khu V đánh giá rất cao.
Tháng 12 năm 1968, có một đợt đi thực tế xuống đồng bằng, Dương Thị Xuân Quý, xin về chiến trường Quảng Đà. Những năm tháng này, Quảng Đà là chiến trường ác liệt nhất của Khu V nói riêng và của cả miền Nam nói chung. Nhiều nhà báo và văn nghệ sỹ đi vào mặt trận Quảng Đà đã mãi mãi nằm lại dọc hai bên bờ sông Thu Bồn. Khi biết Xuân Quý có nguyện vọng đi Quảng Đà, lãnh đạo văn nghệ Khu rất do dự và đề nghị chị chọn nơi ít nguy hiểm hơn. Nhưng chị từ chối. Ngay từ hồi là phóng viên báo Phụ Nữ Việt Nam, Dương Xuân Quý đã như vậy, hễ nghe đâu có sự tích anh hùng là quyết đến cho bằng được, dù đó là túi bom trong chiến tranh phá hoại của máy bay Mỹ. Vì vậy, chị quyết chí đến Quảng Đà.
Một cán bộ lãnh đạo chủ chốt của lực lượng Văn nghệ Giải phóng Trung Trung Bộ đã nói về Dương Thị Xuân Quý: “Được đi đồng bằng chuyến đầu, chị lao ngay xuống vùng sâu, rất sâu (…), Quý đến Xuyên Tân, Duy Xuyên thì gặp địch (…), một loạt đạn của quân Nam Hàn quật ngã chị (…). Cho tôi nói điều này: Thật bất công nếu không gọi chị là một người anh hùng”.
Nhà văn Nguyên Ngọc nhớ lại: “Chúng tôi họp, bom B52 nổ rền đâu đó, ở sườn núi bên kia. Chị vừa bị sốt rét rừng... Quý đến muộn một chút... Chị gầy và xanh quá. Nói là còm cõi cũng không quá đáng. Duy có đôi mắt, tất cả là ở đó. Đôi mắt vừa đằm thắm, vừa rắn rỏi, vừa thông minh. Hay đúng hơn, nhìn vào đôi mắt ấy, anh bỗng hiểu rằng trước mặt mình là một con người có thể lặng lẽ suốt đời đi đến mục đích đã tự khẳng định của mình, bất chấp tất cả, không gì ngăn cản được ...“
Ngoài những bài báo có thép, Dương Thị Xuân Quý còn có một số tác phẩm văn học: “Về làng” (truyện ngắn - 1960), “Chỗ đứng” (tập truyện ngắn - 1968), “Hoa rừng: (gồm các truyện ngắn, bút ký)... Năm 2007, bà được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Cuốn nhật ký chiến trường.
Sự nghiệp văn chương báo chí đang độ chín, Dương Thị Xuân Quý đã hi sinh, để lại bao tiếc nuối của bạn bè đồng đội. Trang viết của bà tuy chưa dày, nhưng với những gì bà để lại, nhà thơ Thanh Quế đã có nhận định khá chính xác, khách quan: “Tôi biết không có gì lại dẫn dắt những người còn sống chúng ta tới gần bản chất của sự sống bằng cái chết của những người như chị. Chị đã dạy cho chúng ta cách sống đúng đắn hơn, dũng cảm hơn”.
Nhà báo, nhà văn Dương Thị Xuân Quý hi sinh, còn để lại những dòng nhật ký, trong đó có trang ghi: “15 - 12 - 1968, đến hôm nay Ly của mẹ đã nói hai tiếng (Ly là tên con gái của bà) và khi đã nói được hai tiếng một thì con đã phải trả lời hai tiếng này: Bố đâu? Đi Nam. Mẹ đâu? Đi Nam. Ôi thương Ly vô hạn. Cứ nghĩ vậy, mình lại khóc. Khổ thân con quá! Đẻ ra vừa biết cười là bom đạn. Vừa biết cười lên tiếng là xa bố. Vừa nhú răng là sơ tán. Vừa biết gọi mẹ là mẹ đi xa”. Và trong lá thư cuối cùng Dương Thị Xuân Quý gửi cho nhà văn Chu Cẩm Phong (Trần Tiến) ghi ngày 02 tháng 3 năm 1969, tức là trước lúc hi sinh 6 ngày, Xuân Quý viết: “May mắn tôi được có mặt, Xuyên Hoà kiên cường lắm, tôi bắt gặp nhiều điều rất xúc động, gặp nhiều nguy hiểm, nhưng vui kỳ lạ…”.
Có lẽ chẳng cần bình luận nhiều, trong cuộc chiến tranh giải phóng, những người mẹ để lại con thơ phía sau, để ra chiến trường vì sự tự do, độc lập, thống nhất đất nước. Có sự hi sinh nào cao cả hơn thế. Tuy vậy, đối với Xuân Quý, nỗi nhớ con nhọc nhằn hơn cả bom đạn, thiếu thốn… Vì thế, nhật ký của Xuân Quý không ngày nào không nhắc đến con.
Về sự nghiệp văn học, báo chí của Dương Thị Xuân Quý, theo nhà nghiên cứu văn học Thiếu Mai: “… Mục đích của Xuân Quý là viết, đi để viết nhưng không phải chỉ để viết mà trước hết là để được sống, sống cuộc sống có ý nghĩa”. Bà cảm thấy “chưa bao giờ mình được sống hạnh phúc như những ngày này. Đường ra trận vui ghê lắm. Trăm ngàn gian khổ không thể nào ngăn cản nổi bước chân ta. Hãy không ngừng phấn đấu để cho mỗi ngày của chúng ta đều đẹp và tràn đầy hi vọng như thế”.
Xuân Quý đã hi sinh. Cuộc đời ngắn ngủi của bà thật đẹp đẽ, trong sáng như những bông hoa hướng dương luôn luôn vươn tới ánh sáng mặt trời chói sáng. Bà yên tâm vì mình đã sống đúng, sống đẹp: “Mình cảm thấy sung sướng vì đời mình trong trẻo quá (…)”.
Đọc lại những gì bà để lại, ta càng đau đớn, xót xa tiếc về bà. “Cuộc đời và tác phẩm của chị là những bằng chứng hùng hồn để chúng ta tin rằng nếu còn sống, Xuân Quý sẽ sáng tác được nhiều và sẽ có nhiều truyện có giá trị về cuộc sống con người trong cuộc chiến đấu chống Mỹ nói chung, trong đó thế nào chị cũng dành cho chị em phụ nữ những trang viết trong sáng nhất, rung động nhất” (Chân dung các nhà báo liệt sỹ).

Vào một ngày cuối năm quý mão vừa qua, nữ nhà văn Huệ Ninh giới thiệu với công chúng tác phẩm văn học mới nhất của...
Bình luận