Thi ca thực sự ngang tầm chiến lũy

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi” (Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm). Khi chúng tôi lớn lên thì hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc đã kết thúc, đất nước thống nhất, chưa được đứng vào hàng ngũ những người lính chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, tôi cũng như thế hệ đồng lứa đã được học về thi ca chống Pháp, chống Mỹ... và rất tự hào khi được chứng kiến “Vóc dáng nhà thơ ngang tầm chiến lũy”.

Hùng hậu “binh đoàn” nhà thơ

Đội ngũ hùng hậu, gồm những nhà thơ mặc áo lính và không mặc áo lính xuất hiện trong “bầu trời” thơ ca Việt Nam ngày càng đông đảo. Với những “nhà thơ chiến sĩ”, trong suốt 80 năm qua (1944 - 2024), theo chúng tôi, có ba thế hệ.

Thứ nhất, thế hệ nhà thơ chống Pháp có những gương mặt nổi tiếng ở Việt Nam, xuất hiện từ trước Cách mạng tháng Tám như Thanh Tịnh, Thâm Tâm, Tố Hữu… và trong Chín năm kháng chiến (1945 - 1954) có Huỳnh Văn Nghệ, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm, Trần Dần, Hữu Loan, Thôi Hữu, Hoàng Lộc, Quang Dũng, Chính Hữu, Trần Mai Ninh, Phùng Quán, Minh Huệ, Trần Hữu Thung, Vũ Cao… Thơ kháng chiến chống Pháp đã góp phần làm thay đổi diện mạo thơ tiền chiến, trước đó.

Nhiều nhà thơ, nhà văn đã hy sinh trên đường công tác những năm kháng chiến chống Pháp như Nam Cao (1917 - 1951), Trần Mai Ninh (1917 - 1947), Thâm Tâm (1917 - 1950).

Thứ hai, thế hệ nhà thơ mang áo lính hùng hậu nhất chắc chắn thuộc về thời chống Mỹ với các tác giả tiêu biểu như Phạm Ngọc Cảnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng, Văn Lê, Trần Đăng Khoa, Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Thu Bồn, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Lưu Quang Vũ, Trần Mạnh Hảo...

Các nhà thơ giai đoạn này, thực sự là những người lính, “lăn xả” vào khói lửa trận mạc, nhiều nhà thơ, nhà văn đã ngã xuống trên chiến trường như Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940 - 1968), Nguyễn Mỹ (1935 - 1971), Dương Thị Xuân Quý (1941 - 1969)...

Đặc biệt như Dương Thị Xuân Quý - cả hai vợ chồng lần lượt xung phong vào chiến trường khu V, gửi lại đứa con duy nhất cho mẹ già ở hậu phương chăm sóc. Chị đã vĩnh viễn nằm lại ở vùng đông Duy Xuyên (Quảng Nam). Tấm gương hy sinh của chị lay thức đến tận hôm nay.

Thứ ba, thế hệ nhà thơ bộ đội xuất hiện vào thời hậu chiến và đổi mới (sau năm 1975 đến nay) có thể kể đến Lê Thành Nghị, Trần Anh Thái, Hồng Thanh Quang, Nguyễn Việt Chiến, Lê Mạnh Tuấn, Nguyễn Hữu Quý, Mai Nam Thắng, Nguyễn Bình Phương, Trần Quang Đạo, Nguyễn Sỹ Đại, Hải Đường, Nguyễn Hưng Hải, Phạm Sỹ Sáu, Đoàn Minh Tuấn, Nguyễn Trọng Văn…

Khi đế quốc Mỹ bắt đầu tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, cả nước thành chiến hào, cùng với các loại súng phòng không của Quân đội, ngọn súng thơ của dân tộc cũng đánh trả ngay lập tức: “Giặc Mỹ mày đến đây/ Thì ta tiêu diệt ngay/ Trời xanh ta nổi lửa/ Biển xanh ta giết mày” (Sao chiến thắng - Chế Lan Viên).

Thi ca thực sự ngang tầm chiến lũy - 1

Tranh màu nước trên giấy "Tổ săn máy bay" vẽ năm 1950 của Huỳnh Văn Thuận. (Tranh minh họa)

Thơ ca “nhật ký” bi tráng của tâm hồn dân tộc

Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp đã sản sinh ra những bài thơ hay như Nhớ Bắc của Huỳnh Văn Nghệ; Đồng chí của Chính Hữu; Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm; Tây Tiến của Quang Dũng; Nhớ máu và Tình sông núi của Trần Mai Ninh; Nhớ của Hồng Nguyên; Các anh về của Hoàng Trung Thông; Đèo CảMàu tím hoa sim của Hữu Loan; Đây, Việt Bắc của Trần Dần; Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ; Thăm lúa của Trần Hữu Thung; Việt Bắc Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của Tố Hữu… 

Tình sông núi của Trần Mai Ninh cùng với Đèo Cả của Hữu Loan, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm lấp lánh những vẻ đẹp tình yêu quê hương, đất nước của thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp. 

Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Núi Đôi của Vũ Cao dù hoàn thành sau năm 1954 vẫn mang âm hưởng ấy. Vừa mang phôi liệu kháng chiến vừa thấp thoáng chất tráng sĩ hào hoa và cũng chưa thoát hẳn ảnh hưởng của thơ mới, thơ của thời kỳ chống thực dân Pháp có sức hấp dẫn riêng.

Thời kỳ chống thực dân Pháp, hình ảnh đặc trưng của bộ đội Cụ Hồ là người nông dân mặc áo lính. Gắn liền với hình ảnh người nông dân mang áo lính chân mộc là biểu tượng “đầu súng trăng treo” (Đồng chí - Chính Hữu) lung linh mãi tới bây giờ. 

Người lính chống Pháp trong thơ Hữu Loan vừa dũng mãnh vừa lãng mạn, thấp thoáng chất tráng sĩ hào hoa. Những con người như thế đã làm nên kỳ tích, chiến công to lớn cho dân tộc.

Các tác phẩm thơ xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước mang âm hưởng chủ đạo là anh hùng ca với tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược và tràn trề lòng lạc quan. 

Đó là những tác phẩm Mẹ của Phạm Ngọc Cảnh; Cuộc chia ly màu đỏ của Nguyễn Mỹ; Nửa sau khoảng đời của Vũ Đình Văn; Lửa đèn, Tiểu đội xe không kính, Gửi em, cô thanh niên xung phong, Nhớ, Trường Sơn đông, Trường Sơn tây của Phạm Tiến Duật; Nấm mộ và cây trầm của Nguyễn Đức Mậu; Bầu trời vuông Hơi ấm ổ rơm của Nguyễn Duy; Cây xấu hổ và trường ca Sóng Côn Đảo của Anh Ngọc; Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân; Chuyến đò đêm giáp ranh và trường ca Sức bền của đất của Hữu Thỉnh; các trường ca Bài ca chim chrao của Thu Bồn, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm…

Những năm cuối chiến tranh và vài chục năm đầu thời hậu chiến, nhiều trường ca có giá trị về nội dung và nghệ thuật của thế hệ nhà thơ chống đế quốc Mỹ lần lượt ra đời được sự đón nhận nồng nhiệt của công chúng như Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Trường ca Sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu, Sông Mê Kông bốn mặt của Anh Ngọc, Đất nước hình tia chớp của Trần Mạnh Hảo…

Sau chiến tranh, do có độ lùi về thời gian, sự cởi mở thoáng đãng trong nhìn nhận đánh giá văn học và được tiếp nhận nhiều phương pháp sáng tác mới nên các tác phẩm viết về người lính cũng đa dạng, phong phú hơn. Bên cạnh tô đậm thêm, lý giải sâu sắc hơn về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng tập thể cao cả người cầm bút không ngần ngại phản ánh sự hy sinh mất mát to lớn của dân tộc… 

Những tác phẩm thơ như trường ca Biển của Hữu Thỉnh, Điệp khúc vô danh của Anh Ngọc, Mở bàn tay gặp núi của Nguyễn Đức Mậu, Sinh ở cuối dòng sông của Nguyễn Hữu Quý, Đổ bóng xuống mặt trời của Trần Anh Thái, Đất nước hình tia chớp của Trần Mạnh Hảo… cũng như một số tập thơ của Phạm Ngọc Cảnh, Phùng Khắc Bắc, Vương Trọng, Nguyễn Hồng Hà, Đỗ Trung Lai, Lê Thành Nghị, Tô Nhuần, Mai Nam Thắng, Hải Đường, Trần Quang Đạo, Lê Mạnh Tuấn, Đoàn Minh Tuấn, Phạm Sỹ Sáu, Nguyễn Hưng Hải… đã chứng minh cho điều đó.

Thời kỳ chống Mỹ cứu nước, hình ảnh người lính ra trận phổ biến là những thanh niên xếp bút nghiên lên đường đánh giặc. “Lớp lớp mười tám, đôi mươi/ Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Thơ Tố Hữu). 

Đối với những người lính thời ấy không có gì cao quý hơn khi được ra chiến trường đánh giặc: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” (Trường Sơn đông, Trường Sơn tây - Phạm Tiến Duật). Cuộc sống bước vào thi ca thật giản dị tự nhiên, hay hiện thực ấy đã mang chất thơ đích thực rồi: “Không có kính không phải vì xe không có kính/ Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi/ Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng…” (Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật).

Tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống đã nâng cánh cho không ít bài thơ bay bổng. Giữa sục sôi bom lửa chiến trường, dưới mái tăng người lính chợt trở nên mơ mộng: “Mặt trời là trái tim anh/ Mặt trăng vành vạnh là tình của em/ Thức là ngày, ngủ là đêm/ Nghiêng nghiêng hai mái hai miền quê xa” (Bầu trời vuông - Nguyễn Duy)… Tinh thần xả thân vì Tổ quốc là nét nổi bật nhất của người chiến sĩ. 

Những người lính giữ gìn biên cương biển đảo Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế, xây dựng đất nước sau năm 1975 đến nay cũng được thơ ca phác họa khá nhiều. Trần Đăng Khoa viết về sự cống hiến thầm lặng của những người lính trẻ biên phòng thật xúc động: “Những mùa đi thăm thẳm/ Trong mung lung chiều tà/ Có bao chàng trai trẻ/ Cứ lặng thinh mà già/ Áo lên màu mốc trắng/ Tóc đầm đìa sương bay/ Lời yêu không muốn ngỏ/ E lẫn vào gió mây” (Đỉnh núi). 

Đề tài về chiến tranh - người lính vẫn còn rất hấp dẫn với các nhà thơ vì nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc luôn song hành với xây dựng đất nước. Thi ca thực sự đã “ngang tầm chiến lũy”, không chỉ ghi lại những trang sử hào hùng của dân tộc, nuôi dưỡng tâm hồn, ý chí của con người Việt Nam mà còn mang giá trị bất tử đời sống tinh thần của con người.

Ngô Đức Hành

Tin liên quan

Tin mới nhất