Vài nét tương đồng trong sự tiếp biến giao lưu văn hóa Việt - Mường ở Hòa Bình

Hòa Bình là địa phương miền núi cửa ngõ vùng Tây Bắc có vị trí cận kề với đồng bằng Bắc Bộ. Theo tổng điều tra dân số năm 2019, toàn quốc người Mường tập trung đông nhất ở Hòa Bình với 549.026 người chiếm 63,3% dân số của địa phương. Dựa trên những kết quả của nhiều công trình nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ, khảo cổ học, dân tộc học, văn hóa xã hội… các nhà sử học đã xếp người Việt và người Mường thành một nhóm “Việt - Mường”.

Bước đầu có thể khẳng định người Mường chính là người Việt cổ sinh sống ở vùng rừng núi. Từ xa xưa không gian văn hóa Mường bao trùm cả một vùng rộng lớn kéo dài suốt từ các khu vực Yên Bái, Sơn La, Phú Thọ, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa đến tận Nghệ An, Hà Tĩnh. Do vậy, trong quá trình lịch sử sự tiếp biến giao lưu văn hóa của người Việt và người Mường là điều tất yếu. Điều này diễn ra ở Hòa Bình rất rõ nét và tạo nên bản sắc riêng của các dân tộc Hòa Bình.

Văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển. Trong điều kiện cụ thể, nghiên cứu về văn hóa cũng giúp nhìn nhận và đánh giá các vấn đề về lịch sử đúng đắn và khách quan hơn. Những thành tựu văn hóa luôn phản ánh tất cả sự thật của lịch sử trong quá khứ.

Đặc biệt vào thời kỳ cổ trung đại ở Hòa Bình, thời kỳ còn rất nhiều bí ẩn. Người Việt và người Mường từ chung một nguồn gốc, đồng thời người Mường cư trú liền kề với trung tâm của nền văn minh sông Hồng. Do vậy việc giao thoa, tiếp biến giao lưu văn hóa từ thời cổ đại đã để lại nhiều dấu ấn.

Vài nét tương đồng trong sự tiếp biến giao lưu văn hóa Việt - Mường ở Hòa Bình - 1

Ảnh minh họa

1. Vũ trụ luận, tín ngưỡng tục thờ cúng, lễ hội, tôn giáo

Về vũ trụ luận người Việt - Mường đều có sự nhìn nhận gần như tương đồng, đó là cái trục bất biến: Trời - Đất - Người. Trời bao giờ cũng là đấng siêu nhiên cao nhất chi phối tất cả. Con người là một sản phẩm của vũ trụ, là tinh hoa của tạo hóa, con người luôn nhận thức, thích nghi thay đổi để tồn tại phát triển. Trong thời kỳ sơ khai đã phải gắn mình vào những thế lực siêu nhiên đó, như Ông Trời, Vua Trời, Diêm Vương, Vua Khú, thiên mệnh, số mệnh, hồn vía, vạn vật có tinh (Tô tem)… thế giới siêu nhiên đó chính là lớp hào quang của thế giới thực phản ánh trong tư duy nguyên thủy của con người.

Theo nhà nghiên cứu Từ Chi, đối với người Mường thì đó là hệ thống ba tầng, bốn thế giới. Trên cao nhất là Mường Trời; ở giữa - trên mặt đất là Mường Bằng (Mường Pưa), thế giới của người sống; ở tầng thứ ba là tầng dưới mặt đất, tầng này có hai thế giới là Mường Bằng Dưới (Mường Pưa Tín) và Mường Vua Khú (Thuồng Luồng) ở dưới đáy nước. Mường Pưa - thế giới của con người được lấy làm trung tâm, là cõi sống của con người trong một không gian hữu hạn. Còn “Mường Vua Khú mang nặng tính chất cổ tích hơn là tôn giáo” nằm trong thế giới siêu nhiên hoàn chỉnh với thời gian vô hạn.

Vài nét tương đồng trong sự tiếp biến giao lưu văn hóa Việt - Mường ở Hòa Bình - 2

Đồng bào dân tộc Mường mặc trang phục truyền thống tái hiện Lễ hội Kéo si.

Cả hai dân tộc giải thích về nguồn gốc tổ tiên mình gần giống nhau. Người Việt là truyền thuyết về Lạc Long Quân (rồng) và Âu Cơ (tiên) gặp nhau đẻ ra một bọc 100 trứng, nở ra 100 người con, chia ra 50 người lên rừng, 50 người xuống biển sinh cơ lập nghiệp. Còn người Mường qua sử thi thần thoại Đẻ đất, đẻ nước” thì cho rằng tổ tiên mình bắt nguồn từ “Chim Ây”, cái “Ứa” đẻ ra trứng “Điếng” cũng như bọc trăm trứng ở núi Hang Hao thuộc Mường Thàng (Cao Phong). Các trứng đẻ ra muôn loài, con người được sinh ra từ trứng thiêng, và hơn thế khi trứng thiêng nở ra Đá Cái, Đá Cần, nàng Dạ Dịt, đẻ ra các loài muông thú, chim chóc…

Nghĩa là trong thời tiền sử hỗn mang “bời lời, bạc lạc” thì chim Ây, chim Ứa là thủy tổ của tất cả muôn loài trong đó có cả người Việt.

Bên cạnh sử thi Đẻ đất, đẻ nước, ở một vài địa phương còn có các sự tích huyền thoại khác giải thích về sự phân ngành Việt - Mường. Như ở Mường Vang có truyện Công chúa Ngu Cơ (là con hươu sao) lấy Hoàng tử Lường Vường (là con các thần) lấy nhau đẻ ra bọc trăm trứng, nở ra 50 người con trai, 50 ngưòi con gái. 50 con xuống biển lập dòng vua Áo vàng thành người Việt, 50 con lên rừng lập dòng vua Áo đen thành người Mol. 

2. Về gia đình, tín ngưỡng, tục thờ, lễ hội và tôn giáo

Gia đình của người Việt và người Mường đều là gia đình phụ hệ, rất coi trọng dòng giống, họ hàng, vị trí của người đứng đầu dòng tộc và ở tất cả các mối quan hệ khác trong xã hội, phân biệt đẳng cấp sang hèn nặng nề. Người Mường cũng gay gắt không kém người Việt. Như các họ Đinh, Quách, Bạch, Hà, Xa, Cao truyền đời được làm Quan Lang, còn người các họ khác muôn đời làm thường dân. Con cái xây dựng gia đình hoàn toàn do gia đình hoặc dòng họ lựa chọn áp đặt, nhất là đối với dòng họ Quan Lang, các Bà Nàng tuyệt đối không được lấy chồng thường dân. Nhiều người đành phải ở vậy suốt đời. Cho nên trong văn học dân gian Mường có nhiều câu chuyện tình lãng mạn bi thương với kết cục thường là cái chết, như truyện “Út Lót - Hồ Liêu”, “Hùy Nga hai mối”…

Người Việt - Mường cùng có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu, thờ Đức Thánh Tản, thờ Thần Thành hoàng và những người có công với nước, với mảnh đất mà mình đang sinh sống.

Việc thờ cúng tổ tiên đều phản ánh sâu sắc ý thức về cội nguồn, về đạo lý uống nước nhớ nguồn và tình cảm ruột thịt. Đồng thời làm điểm tựa cho mối gắn kết các gia đình dòng họ và cộng đồng. Thờ cúng tổ tiên chính là một trong những tín ngưỡng cổ xưa nhất của người Việt - Mường. Điểm khác là tổ tiên được thờ cúng của người Mường là cả hai bên nội ngoại.

Nhiều vùng miền thờ Đức Thánh Tản (thần núi), nhất là ở Mường Bi. Đức Thánh Tản là một trong tứ bất tử của người Việt. Thần núi Ba Vì là một vị thần tối linh của người Việt và người Mường. Có giai thoại thờ bà Đinh Thị Đen ở đền Lăng Xương, tỉnh Phú Thọ (nơi đối diện nhìn sang núi Ba Vì) là thân mẫu của Đức Thánh Tản (tên húy là Nguyễn Tuấn) có nguồn gốc là người Mường Thàng (Cao Phong). Theo nghiên cứu của giáo sư Trần Quốc Vượng, ông đưa ra giả thuyết có thể người Mường thời khởi thủy bắt đầu từ chân dãy núi Ba Vì rồi mới sang lan tỏa ra các vùng, sau đó dần quy tụ về các Mường: Bi, Vang, Thàng, Động.

Như vậy, đến đây ta thấy bóng dáng tín ngưỡng thờ Mẫu cũng có ở người Mường như người Việt. Nếu đọc sử thi Đẻ đất, đẻ nước, ngay phần đầu sau khi “cây si (cây vũ trụ trong thần thoại Mường) mục gốc đẻ ra con cá, thối lá đẻ ra con muông, thối lòng đẻ ra Dạ Dần, thối thân cây si đẻ ra Dạ Dộ, thối cành cây si đổ đẻ được đôi chim Ây cái Ứa”. Dạ Dần được coi như là bà mẹ của đất, nước và sông núi ruộng nương…

Trong tâm thức dân gian người Mường đã coi bà Dạ Dần mệnh danh là “Bà Đất”, là “Vàng Bà”, là “Quốc Mẫu Hoàng Bà”, đến nay có người còn gọi là Phật Bà đứng đầu trong thế giới tâm linh (phần cõi âm) cùng với Vua Cha Ngọc Hoàng (trời) là đấng tối cao của thần linh phù hộ cho muôn dân.

Thờ Thần Thành Hoàng, cũng như người Việt, ngày hội làng bản thường là ngày húy của Đức Thần Thành Hoàng, được tổ chức cúng rước hát múa ăn uống linh đình, lễ thức tổ chức không khác gì người Việt. Lễ hội Đền Thác Bờ thờ “Bà chúa thượng ngàn” ở xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc và xã Thung Nai, huyện Cao Phong, Hòa Bình do cả người Việt và người Mường cùng tổ chức cúng lễ ăn uống vui chơi rất đông người tham gia. Có thể nói các lễ hội đó diễn ra đều thể hiện rõ nét sự giao lưu hòa quyện sinh hoạt văn hóa tâm linh Việt - Mường, cho thấy sự gắn kết từ rất lâu của hai dân tộc.

Về tôn giáo, Đạo Phật được du nhập vào Việt Nam vào khoảng những thế kỷ đầu của Công nguyên. Nhưng tới với người Mường cư trú ở tỉnh Hòa Bình thì vào khoảng thế kỷ thứ 9, thế kỷ thứ 10. Khi đó người Mường đã có bề dày về các hoạt động tín ngưỡng như mo, trượng, mỡi vô cùng phong phú. Do vậy, yếu tố Phật giáo đã phải hòa vào các hoạt động tín ngưỡng này đóng vai trò quan trọng với hình tượng đã được việt hóa như Phật Bà. Phật Bà đó có thể nội hàm chính là Bà Dạ Dần nữ thần có quyền lực cao nhất trong các vị thần của người Mường.

3. Ngôn ngữ, tục ngữ, dân ca hát ví hát đúm…

Người Việt và người Mường cùng là cư dân canh tác lúa nước cho nên tập quán và sinh hoạt có nhiều nét tương đồng và ảnh hưởng đến nhau trong tiến trình lịch sử, đặc biệt là ngôn ngữ và văn hóa nghệ thuật dân gian.

Về ngôn ngữ, đã được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học xếp vào nhóm ngôn ngữ Việt - Mường. Chúng ta có thể dễ dàng tìm ra nhiều các từ đồng âm, đồng nghĩa ngay cả trong sử thi Đẻ đất, đẻ nước. Ví dụ như người Việt gọi là “anh” thì người Mường gọi là “enh” người Việt gọi là con “trâu” hay con “tru” thì người Mường gọi “Clu”, người Việt gọi là “em ún” thì người Mường gọi là “ủn”…

Hoặc có nhiều câu tục ngữ đã được đúc kết trong đời sống sinh hoạt và lao động sản xuất mang đậm bản sắc Việt - Mường trong cả cấu trúc, vần điệu, ý tứ. Thông qua đó ta cảm nhận được phần nào văn hóa Việt - Mường hòa quyện với nhau trong lịch sử sâu sắc và bền chặt như thế nào.

Như câu: “Khảng chiêng ăn nghiêng đụn lọo” (Tháng giêng ăn nghiêng bồ lúa). Tháng giêng ăn chơi tốn kém, không làm lụng gì, nhất là chuẩn bị vào thời điểm giáp hạt đói kém, đó là nỗi lo chung của người nông dân Việt ở vùng đồng bằng cũng như của người Mường ở miền núi. Câu: “Non nhà hơn khà đôồng” như câu “Xanh nhà hơn già đồng” của người Việt. Đó là tâm lý chung của người nông dân khi cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên.

Ngay cả ca dao dân ca với thể thơ lục bát 6-8 xưa nay chúng ta vẫn coi là đặc sản của người Việt cũng tìm thấy trong văn nghệ dân gian Mường. Như câu:

“Thương khà cho thịt cho xôi

Két khà doong đểng Kim Bôi, Hạ Bì”

(Thương nhau cho thịt cho xôi

Ghét nhau đưa đến Kim Bôi, Hạ Bì)

Đặc biệt, người Mường cũng có hát ví, hát đúm như người Việt. Nội dung giao lưu của trai gái Mường khi gặp nhau trong khi đi hội, đi chợ, đi làm, với nội dung chủ yếu là tình yêu đôi lứa. Trình độ sử dụng thể thơ lục bát trong hát ví hát đúm của người Mường khá điêu luyện. Có thể giữ nguyên thể thơ lục bát ở cả bài, có thể xen kẽ hoặc cải biên. Do vậy trong quá trình nghiên cứu về loại hình nghệ thuật văn hóa dân gian này có một số ý kiến khác nhau về nguồn gốc do người Việt đưa lên hats ví, hát đúm là của người Mường từ lâu.

Thực tế, hát ví, hát đúm người Mường đang có cho ta thấy người Mường và người Việt gần như là một, với sự hòa quyện đan xen tiếp thu những tinh hoa văn hóa nghệ thuật của nhau từ xa xưa. Như bài hát ví Mời trầu cũng đã làm người được đón tiếp mê đắm không kém gì nghe quan họ Bắc Ninh.

“Pao wần manh lễ môch tlải nang xanh

Dong wềl pưa thảm mời enh ăn tlù 

Tlù ni, tlù ngĩa, tlù tinh

Tlù lan, tlù phưỡng, tlù miềnh, tlù ha…”

(Vào vườn hái quả cau xanh

Đem về bổ tám mời anh xơi trầu

Trầu này, trầu nghĩa, trầu tình

Trầu loan, trầu phượng, trầu mình, trầu ta…)

Còn một tác phẩm duy nhất do người Mường viết về lịch sử trước năm 1945 đó là Hòa Bình Quan Lang sử lược diễn ca của Quách Điêu (bút danh Đồ Gàn) được dịch và phiên âm phần chữ Nôm và chữ Quốc ngữ in trong báo Nam Phong số 100 tháng 10 - 11 năm 1925 có 8 trang văn xuôi và 340 câu thơ lục bát nội dung diễn giải khái quát về lịch sử của dân tộc Mường từ thời cổ đại trải qua các triều đại phong kiến Việt Nam.

Gạt bỏ những hạn chế, về góc độ văn hóa đây là một tài liệu rất quý phản ánh đậm nét sự tiếp biến ảnh hưởng của văn hóa Việt đối với người Mường, đặc biệt là tầng lớp quan lang, trí thức Mường. Nhìn nhận về nguồn gốc dân tộc, tổ tiên và tiến trình lịch sử cũng như người Việt, cho chúng ta gợi ý khi tìm hiểu các vấn đề liên quan Việt Mường, sự gần gũi hay đồng nhất. 

3. Kết luận

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, nền văn hóa Hòa Bình là nền văn hóa tiền sử nổi tiếng ở khu vực Đông Nam Á có niên đại cách đây khoảng 18.000 năm đến 7500 năm. Có thể người nguyên thủy ở trên đất Hòa Bình cách đây khoảng trên 3 vạn năm vào thời kỳ tiền bộ lạc, thị tộc. Với phương thức sinh sống săn bắn hái lượm đánh bắt tôm cá cua ốc…

Cư trú ở các hang động, mái đá của các dãy núi đá vôi bao quanh các thung lũng sông suối hồ ao đầm lầy rừng cây sinh quyển nhiệt đới, cận nhiệt đới nhiều tầng cực kỳ đa dạng phong phú. Tất cả tạo nên một không gian sống quần tụ vô cùng thuận lợi cho việc cư trú kiếm ăn sinh sôi phát triển. Một số nhỏ có xu hướng chuyển ra quần tụ bên ngoài không ở hang động mái đá nơi có môi trường sống thuận lợi hơn, có thể đó là cái cớ tuyệt vời cho việc nảy sinh và nuôi dưỡng những mầm mống của hình thái xóm bản cổ xưa. Làm tiền đề cho các nhóm người (như trong các truyền thuyết) phân chia tiến xuống vùng thấp đang dần được bồi đắp ra phía biển để tiếp cận với việc trồng lúa…phát triển khắp cả vùng đồng bằng, đó chính là người Việt. Nhóm người ở lại sinh sống trong vùng đất rừng núi đầu nguồn sông suối là người Mường. Người Mường quy tụ ở 4 vùng mường lớn của Hòa Bình nơi phát hiện nhiều nhất các di chỉ khảo cổ thuộc nền Văn hóa Hòa Bình.

Vài nét tương đồng trong sự tiếp biến giao lưu văn hóa Việt - Mường ở Hòa Bình - 3

Tác giả Lê Văn Thái - Hội Khoa học Lịch sử Hòa Bình (ngoài cùng bên trái) trong một chuyến điền dã tìm hiểu văn hóa – lịch sử ở Hoà Bình.

Do vậy, vùng đất của người Mường Hòa Bình chính là nơi lưu lại được nhiều dấu tích của người Việt cổ. Nghiên cứu về người Mường, về sự tiếp biến giao lưu văn hóa Việt - Mường ở Hòa Bình để chúng ta có thể hiểu rõ hơn về tổ tiên của người Việt thông qua các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như các công trình kiến trúc, thành lũy, nhà ở, di tích danh thắng, trống đồng, cồng chiêng, công cụ lao động sản xuất, vũ khí, cung nỏ… Các phong tục tập quán, triết lý, tín ngưỡng, tôn giáo, cưới tang, táng thức, lễ hội, ăn uống, trang phục, quan hệ xã hội , gia đình dòng họ, văn hóa nghệ thuật…

Tóm lại một số vấn đề đưa ra trong bài viết này mới chỉ đề cập được tới một số biểu hiện tương đồng trong phạm vi các giá trị truyền thống văn hóa dân gian, tín ngưỡng và lễ hội… Văn hóa Việt - Mường còn tiềm ẩn trong các giá trị văn hóa vật chất và giá trị văn hóa tinh thần theo nghĩa rộng và cả nghĩa hẹp cần có sự tìm hiểu nghiên cứu nhiều hơn của các nhà khoa học ở các lĩnh vực. Để chúng ta có thể nhìn nhận vấn đề này đầy đủ và khách quan nhất.,.

Lê Văn Thái

Tin liên quan

Tin mới nhất

“Truyện Kiều” được ra mắt với diện mạo mới

“Truyện Kiều” được ra mắt với diện mạo mới

Nhân dịp kỉ niệm 260 năm ngày sinh (1765-2025) và tưởng niệm 205 năm ngày mất (1820-2025) của đại thi hào Nguyễn Du, Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản “Truyện Kiều” với minh họa của họa sĩ Nguyễn Công Hoan.

Pha Long nơi biên cương Tổ Quốc (viết nhân kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12)

Pha Long nơi biên cương Tổ Quốc (viết nhân kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12)

Tôi gặp anh vào một buổi chiều cuối năm, khi gió mùa đông bắc đã kịp tràn về, se sắt như những lớp ký ức lâu ngày bỗng trở mình. Mái tóc anh bạc quá nửa, ánh mắt vẫn giữ nguyên vẻ rắn rỏi của một người từng đi qua chiến tranh, từng sống trong những tháng năm không cho phép mình yếu đuối. Anh là một cựu chiến binh chống Mỹ, và hơn bốn mươi năm nay, anh mang trong lòng một cuộc hành

Giá dầu chạm đáy thấp nhất từ năm 2021 khi thị trường cân nhắc triển vọng thỏa thuận Ukraine

Giá dầu chạm đáy thấp nhất từ năm 2021 khi thị trường cân nhắc triển vọng thỏa thuận Ukraine

Giá dầu thô Mỹ vừa khép lại phiên giao dịch ở mức thấp nhất kể từ đầu năm 2021, trong bối cảnh giới đầu tư đồng thời đánh giá những tín hiệu lạc quan mới xoay quanh khả năng chấm dứt xung đột Nga–Ukraine và các dữ liệu kinh tế trái chiều từ Trung Quốc. Triển vọng nguồn cung dồi dào tiếp tục phủ bóng lên thị trường năng lượng toàn cầu.

Elon Musk, Tesla và hội đồng quản trị bạc tỷ đắt nhất Thung lũng Silicon

Elon Musk, Tesla và hội đồng quản trị bạc tỷ đắt nhất Thung lũng Silicon

Một phân tích mới cho thấy các thành viên hội đồng quản trị Tesla đã thu về hơn 3 tỷ USD nhờ các gói thưởng cổ phiếu và quyền chọn, mức thu nhập vượt xa mặt bằng chung tại các tập đoàn công nghệ hàng đầu nước Mỹ. Thành công này không chỉ phản ánh đà tăng phi mã của cổ phiếu Tesla, mà còn làm dấy lên tranh cãi gay gắt về quản trị doanh nghiệp, tính độc lập của hội đồng quản