Bàn về văn hóa trong kiến trúc

Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo. Nó có từ thuở bình minh của xã hội loài người. Đây là một khái niệm có thể định nghĩa ở nhiều góc độ khác nhau. Trong lĩnh vực kiến trúc, chúng tôi quan tâm tới khái niệm văn hóa được GS Trần Quốc Vượng đề cập trong cuốn Cơ sở Văn hóa Việt Nam. Theo đó văn hoá được gọi là Culture (tiếng Anh và Pháp), có từ gốc Culture là “trồng trọt nông nghiệp” cùng nghĩa với Cultus animi (gốc Latinh) là “trồng trọt tinh thần”. Như vậy trong cốt lõi của từ văn hóa đã có yếu tố thiên nhiên, hoang dã, đồng thời cũng có yếu tố cải tạo sự hoang dã đó dưới góc độ tinh thần.

Kiến trúc là một loại hình nghệ thuật - kỹ thuật nhằm kiến tạo nên một không gian che chở cho con người. Ở một góc nhìn phổ quát, sự kiến tạo đó phải đảm bảo an toàn bền vững, phải đem lại tiện nghi vật chất cho con người. Nhưng ở góc nhìn văn hóa học nó không được phép làm mất đi những giá trị cốt lõi và truyền thống mà con người đã tạo ra trong lịch sử. Văn hóa trong kiến trúc được biểu hiện như một hệ thống những quan hệ giữa con người với thiên nhiên và vật chất, được kết tụ trong các sản phẩm phục vụ đời sống của bao thế hệ.

Trong mối quan hệ này, có những yếu tố vật thể và phi vật thể được tôn thờ và trở nên bất biến. Đó chính là những yếu tố cấu thành bản sắc mà kiến trúc sư (KTS) cần phải đọc và hiểu nó. Trong không gian đô thị (nghĩa rộng) và ngôi nhà truyền thống (nghĩa hẹp) của kiến trúc Việt Nam, văn hóa kiến trúc biểu hiện mối quan hệ của con người với thiên nhiên, con người với nơi chốn và con người với con người.

Về mối quan hệ giữa kiến trúc - thiên nhiên, chúng được thể hiện theo cách vừa tích cực (che chở) lại vừa tiêu cực (đe dọa) trong tương tác với kiến trúc, KTS Bakema cho rằng, kiến trúc tạo một lớp da thứ ba che chở cho con người trước những đe dọa của thiên nhiên, của biến đổi khí hậu, nhưng đồng thời bản thân kiến trúc cũng phải là một thiên nhiên thứ hai cộng sinh với cuộc sống của con người.

Chính vì vậy, hai khía cạnh đồng thời của mối quan hệ kiến trúc - thiên nhiên được nhấn mạnh trong tổ chức không gian sống cho con người là: vừa phải xác định và bảo tồn yếu tố cốt lõi của thiên nhiên, lại vừa phải làm giàu thiên nhiên, bù đắp vào những phần đã mất trong quá trình cải tạo.

Vậy cốt lõi thiên nhiên là gì, để có thể giữ gìn, bảo tồn nó như một yếu tố bất biến. Có thể tham khảo cách nhìn và đánh giá các yếu tố thiên nhiên cốt lõi trong đô thị thông qua các tác phẩm văn học, âm nhạc, hội họa. Nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi đã mở đầu bài ca “Người Hà Nội” bằng 3 mặt nước quan trọng của Hà Nội: “Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây...” hoàn toàn tương đồng với kiến trúc quan niệm, rằng đây là 3 yếu tố cốt lõi của mặt nước Hà Nội cần được bảo tồn.

Tương tự như vậy, Huế có sông Hương - Núi Ngự, Ba Vì có Tản Viên, Đà Lạt có dãy Langbiang... Chúng đều là thiên nhiên cốt lõi, tạo nên bản sắc của đô thị. Ở nông thôn, phía đầu làng có cây gạo, cây đa; trong khuôn viên ngôi nhà có phần của thiên nhiên cốt lõi trong kiến trúc cần được trân trọng và bảo tồn.

Bàn về văn hóa trong kiến trúc - 1

Văn hóa kiến trúc biểu hiện mối quan hệ của con người với thiên nhiên, con người với nơi chốn và con người với con người (Ảnh minh họa)

Về mối quan hệ giữa kiến trúc - nơi chốn, đây là khái niệm rộng, tuy nhiên trong phạm vi kiến trúc có thể xem như mối quan hệ giữa kiến trúc với một địa điểm có tinh thần (place spirituel). Thường thì yếu tố tinh thần đó gắn liền với yếu tố thời gian, một câu chuyện, một cổ tích hay huyền thoại, nhưng cũng có thể gắn liền với một yếu tố vật chất hay không gian vật chất cụ thể, có sức hấp dẫn cộng đồng.

Chính vì vậy, có thể thấy, kiến trúc có thể được đặt ở một vị trí địa lý thông thường, nhưng cũng có thể được đặt ở một địa điểm có tinh thần, mà ta gọi là nơi chốn. Cũng giống như văn học, kiến trúc có thể kể một câu chuyện bằng các di sản vật chất và không gian nơi chốn, nó tạo nên những yếu tố đặc sắc và không trùng lặp với nơi khác, chính là bản sắc. Đáng tiếc là trong quá trình cải tạo chỉnh trang các không gian cũ của đô thị, không gian truyền thống của nông thôn, người ta chưa đánh giá hết giá trị của các không gian nơi chốn, nên các không gian sau cải tạo mặc dù khang trang hơn nhưng lại mất bản sắc.

Về mối quan hệ giữa kiến trúc - con người, đó là mối quan hệ giữa con người với các thành viên trong không gian gia đình, trong cơ quan, trong nhà trường, trong không gian xã hội. Khi văn minh càng cao, quan hệ các phương tiện công nghệ tiên tiến đem lại sự tiện nghi cho con người nhưng ở chiều ngược lại, nó làm mất đi những giá trị nhân văn trong mối quan hệ giữa con người với con người.

Người ta chỉ cần lướt Facebook mà không cần giao tiếp và gặp mặt. Triết gia Habermas đã cảnh báo về sự đe dọa của tình trạng cô đơn và thiếu tương tác cộng đồng trong đời sống đương đại. Văn hóa nghệ thuật lúc này trở thành cứu cánh để lôi con người ra khỏi cái vỏ bọc tiện nghi vật chất của mình để ra rạp hát, nhà văn hóa, công viên, vườn hoa... để hòa nhập cộng đồng. Vậy kiến trúc có thể đóng góp được gì trong mối quan hệ này.

Ở khía cạnh vĩ mô, chúng ta cần thay đổi quan điểm về không gian công cộng (KGCC). Đây không phải chỉ áp đặt những không gian cố định, nó còn là những không gian linh hoạt và biến đổi tùy theo chức năng và đối tượng. Các công viên, vườn hoa cần gỡ bỏ hàng rào để con người được sử dụng KGCC tự do, những tòa nhà có giá trị văn hóa lịch sử cần được mở rộng cửa để người dân và khách du lịch tham quan.

Ở khía cạnh vĩ mô, trong ngôi nhà, yếu tố gia đình cần được ưu tiên tại các phòng sinh hoạt gia đình, đó phải là nơi hấp dẫn các thành viên. Trong các trường học, hành lang không phải chỉ là không gian giao thông mà còn là không gian giao lưu, tương tác giữa các học trò. Sự thân thiện ấm cúng là sản phẩm của các đô thị cổ cho dù có một chút nhếch nhác; sự lạnh lẽo hoang vắng là sản phẩm của một số đô thị mới cho dù rất khang trang. Văn minh và văn hóa cần phải được song hành trong phát triển.

Khi đời sống con người càng được cải thiện thì nhu cầu vật chất ngày càng cao. Văn minh vật chất của thời đại ngày nay đã tạo nên một tiện nghi vật chất mới, cùng với các vật dụng mới, hiện đại. Một hiệu quả tiêu cực của văn minh vật chất đối với thiên nhiên là khi đời sống vật chất càng phát triển thì của cải càng nhiều, dẫn đến mức tiêu thụ năng lượng càng lớn, và hiệu ứng phát thải ngày càng cao. Đây là những vấn đề trọng yếu của thời đại, của cả thế giới nhưng là thách thức lớn của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập và phát triển.

Đô thị thông minh là đô thị nhiều cây xanh và ít phương tiện cá nhân; ngôi nhà thông minh là ngôi nhà có thể sử dụng có hiệu quả nhất theo cách tối đa năng lượng thiên nhiên, tối thiểu năng lượng nhân tạo. Xu hướng đương đại trong kiến trúc chú trọng tới tính tiết kiệm và hiệu quả không gian mà vẫn mang tới hạnh phúc cho con người nhờ những giá trị văn hóa.

Tóm lại, chúng ta đang sống trong thời đại của những biến đổi. Cuộc sống luôn biến đổi theo hướng tiến bộ và phát triển. Kiến trúc cũng thích ứng theo đà của cuộc sống. Tuy nhiên, có những yếu tố bất biến trong các yếu tố biến. Cần phải khu trú chúng lại để bảo tồn trong quá trình phát triển. Đó là nguyên tắc gìn giữ bản sắc văn hóa trong kiến trúc. Kiến trúc cần phải giải mã được mối quan hệ giữa kiến trúc với thiên nhiên, kiến trúc với không gian nơi chốn và kiến trúc với con người. Văn minh và văn hóa là hai yếu tố gắn bó mật thiết trong phát triển. Văn minh cho phép hướng tới, văn hóa cho phép giữ lại. Văn minh gắn liền với văn hóa khi biết lựa chọn những công nghệ tiên tiến nhưng phải thích ứng đối với việc cải tạo, bảo tồn và phát huy giá trị trong quá trình phát triển.

GS.TS.KTS Doãn Minh Khôi

Tin liên quan

Tin mới nhất