Nhớ mãi "Ông đồ" Vũ Đình Liên
Nhắc đến nhà thơ Vũ Đình Liên là người ta nhớ đến bài thơ "Ông đồ". Nó như một cách định danh, định vị nhà thơ. "Ông đồ" gắn liền với tên tuổi Vũ Đình Liên hơn, dù ông có học hàm Giáo sư, được phong Nhà giáo Nhân dân, Chủ nhiệm Khoa Pháp văn, trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội (nay là Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội).

Nhà giáo Nhân dân Vũ Đình Liên (1913-1996)
Không phải ngẫu nhiên tác phẩm Ông đồ được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 8 Trung học cơ sở ngày nay. Lịch sử chữ viết của ta, ban đầu là dùng chữ Hán (chữ Nho), rồi dùng chữ Nôm, nhưng chữ Nôm lại khó viết hơn chữ Hán. Ví dụ “Trăm năm trong cõi người ta” thì chữ “trăm” phải có chữ “bá” cạnh chữ “bách” mới thành chữ “trăm” của chữ Nôm. Chữ “năm” phải có hai chữ “niên” cạnh chữ “nam” mới thành chữ “năm”. Chữ “trong” phải có chữ “trung” cạnh chữ “long” mới thành chữ “trong”… nên người Việt Nam muốn biết chữ Nôm phải thạo chữ Hán. Mà là chữ Hán phồn thể chứ không phải giản thể như Trung Quốc đại lục đã cải tiến cho đơn giản như bây giờ. Còn Đài Loan (Trung Quốc) thì vẫn dùng chữ Hán phồn thể nên càng khó.
Sau này, khi người phương Tây sang mới dùng con chữ La-tinh để phiên âm tiếng Việt, mới thành chữ quốc ngữ đơn giản dễ đọc, dễ viết như bây giờ.
Thời trước, người Việt có tục cho chữ, thờ chữ Hán, nên cứ Tết Nguyên đán, các ông đồ lại mài mực Tầu, giấy đỏ, bút lông ra đợi. Khách thích chữ gì thì viết chữ ấy. Mấy chữ được khách ưa dùng như: Đức, Tâm, Nhẫn, Phúc, Lộc, Thọ… Ai thích chữ gì thì viết chữ ấy. Viết chữ Hán phát triển thành nghệ thuật thư pháp để chơi chữ, thờ chữ. Cứ nhìn vào đấy để nó nhắc mình làm theo.
“Ông đồ” là một danh xưng trong mấy “thầy” có giá trị trong xã hội xưa: thầy đồ, thầy địa lí, thầy bói, thầy lang (thầy thuốc). Nhưng rồi khi khoa cử bị bãi bỏ, vai trò của Nho học suy tàn, “… Năm nay đào lại nở/ Không thấy ông đồ xưa/ Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?” (Ông đồ) bởi chữ quốc ngữ đơn giản, dễ viết, dễ đọc hơn nhiều.
Song, thời thế đổi thay. Không ai ngờ, nay, người ta lại trở lại với lối cũ. Lại thích chơi chữ Hán. Tết, khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám, các ông đồ, không phải già mà trẻ lại có mặt. Vẫn mực Tầu, giấy đỏ để “cho” chữ. Cùng với một dịch vụ khác: trực họa chân dung.
*
Vũ Đình Liên xuất hiện trong phong trào Thơ Mới (1932-1945), nổi tiếng với bài Ông đồ sáng tác năm 1936, lúc tác giả 24 tuổi. Nhưng ông làm thơ hoài cổ từ lúc 13 tuổi mà bài Hồn xưa được một nhà xuất bản tư nhân ở Hải Dương (cũ) đăng trong tập Những áng thơ hay.
Vũ Đình Liên sinh trưởng ở Châu Khê, Bình Giang, Hải Dương (cũ) nhưng lớn lên ở Hà Nội, chịu ảnh hưởng sâu nặng từ thân mẫu (chứ không phải thân phụ) và ông ngoại, vốn là một ông đồ, chuyên dạy chữ Nho ở quê. Ông ngoại chính là hình ảnh nguyên mẫu trong bài thơ Ông đồ. Vẫn chôn vào đáy dạ mấy câu mẹ dặn: “Ơn ai một chút chẳng quên/ Hờn ai một chút để bên dạ này”, “Ăn mày là ai, ăn mày là ta. Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!” Không trả thù. Càng không thù vặt. Buông bỏ tất cả để sống cho nhẹ người.
Thân phụ ông không may bị mù từ năm ông mới 3 tuổi. Thế là từ đó, người mẹ làm nghề thợ bạc, cứ thế vất vả, tần tảo nuôi chồng và đàn con thơ dại. Ông học giỏi, thi đỗ vào trường Trung học Bảo hộ Đông Dương (Trường THPT Chu Văn An, Hà Nội bây giờ). Mà thời ấy, cả Đông Dương chỉ có một trường ấy đào tạo tú tài bản xứ cho toàn cõi nên ông Kaysone Phomvihane (sau này là Thủ tướng Đảng Nhân dân Cách mạng Lào) cũng theo học trường này. Thời ấy, ông Phạm Văn Đồng (sau này là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng - Thủ tướng) cũng học, nổi tiếng với biệt danh trung phong “Đồng đen”, nhờ chơi bóng đá, chân đất. Bởi trường này khi đó là duy nhất ở Hà Nội có sân bóng đá riêng, tuy không đạt tiêu chuẩn quốc gia nhưng cũng đủ cho học sinh chơi.
Từ năm 1982 đến 1992, tôi có hai nhiệm kỳ làm Phó Hiệu trưởng trường PTTH Chu Văn An. Năm 1987, trường tổ chức Kỷ niệm 80 năm trường Bưởi - Chu Văn An mà tôi là Trưởng ban Tổ chức nên được tiếp các cựu học sinh đáng kính trường Bưởi như: cố vấn Phạm Văn Đồng, nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện, nhà thơ Vũ Đình Liên…
Nhà thơ Vũ Đình Liên chép tay cho tôi lá thư cố vấn Phạm Văn Đồng gửi ông như sau:
“Anh Liên thân mến!
Tôi đã nhận được bức thư của anh. Xin thành thật cảm ơn những tình cảm tốt đẹp của anh.
Đọc bức thư của anh, thấy toát ra tinh thần của một người đầy nhiệt tình và nghị lực. Đó là điều chúng ta đang cần, rất cần. Tôi thân ái chúc anh, tiếp tục những hoạt động phong phú mà tôi không biết hết. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải làm, mọi người phải làm việc, lấy việc làm, việc làm thiết thực đáp ứng và dần dần đẩy lùi cái tiêu cực, cái hư hỏng (tiếp một đoạn Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nói đến trường Bưởi (Chu Văn An) cũ).
Tôi thân ái chúc anh mạnh khỏe, khỏe mạnh về cơ thể, khỏe mạnh về tinh thần và tiếp tục làm những việc vì lợi ích của nhân dân.
Ngày 27/9/1984
Thân ái
Phạm Văn Đồng”.

Nhà thơ Vũ Đình Liên chép tay cho nhà văn Nguyễn Bắc Sơn lá thư cố vấn Phạm Văn Đồng gửi ông có kèm bức ảnh Nhà thơ Vũ Đình Liên tặng thơ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng ở Đại hội III Hội Nhà văn Việt Nam tháng 9/1983
Bây giờ, tôi còn giữ được bài thơ chép tay của ông: Bảy mươi hai tuổi đời, trên đó viết: Rất thân mến tặng trường Chu Văn An nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11/1985.
BẢY MƯƠI HAI TUỔI ĐỜI
Mấy vần thơ đơn giản
Gửi bạn bè tâm giao
Gửi cháu con tình nặng
Gửi học trò nghĩa sâu
Mong được hưởng tuổi Bác
Di chúc học Bác làm
Nhân vừa tròn sáu giáp
Nhớ tình nghĩa công ơn
Người còn và người khuất
Bạn gần với bạn xa
Dưới mái chùa bóng Phật
Bóng Quang Trung, Bác Hồ
Hai tay nâng ngang trán
Một trái tim thơ Trần
Gửi gió mang bốn phương
Hương tình thương nhớ ơn
Thuở nhỏ đâu có ngờ
Đời được dài như thế
Nước mất nhà nghèo xơ
Thương cha và xót mẹ
Những nghĩa nước tình nhà
Hai dòng sữa thơm bổ
Cho thắm thịt tươi da
Biết công đền, ơn nhớ
Học mẹ thầy đọc sách
Đầu tiên học tình thương
Thương người nghèo đói rách
Thương những kiếp đoạn trường
Rồi học nhường, học nhịn
Học những gương hy sinh
Đông Tây và bốn biển
Làm nên Hồ Chí Minh
Bảy mươi tuổi làm thơ
Nhớ công ơn bác mẹ
Bảy mươi hai trồng hoa
Thêm tươi vườn ân nghĩa
Nghĩa trời và nghĩa đất
Cho sáng ngày tối đêm
Ơn Phật, Quang Trung, ơn Bác
Mỗi ngày sống ơn thêm
Được học trò kính mến
Bạn bè trong ngoài thương
Tuổi trẻ lo cống hiến
Đầu bạc, nghĩ đền ơn
Tằm tơ và ong mật
Sâu bọ cũng ơn đời
Bút nghiên rơi nước mắt
Khôn trả hết nợ người.
Mừng tuổi và lo tuổi
Tuổi nghĩa với tuổi nhân
Hạt gạo như hạt muối
Ơn nước, Đảng, ơn dân
Ông Đồ xưa hai bốn
Ông Đồ nay bảy hai
Mừng thủy chung giữ trọn
Làm thơ học làm người
Chùa Bộc, cuối tháng tám năm Ất Sửu (10/1985)
Bài thơ như thước phim ngắn về cuộc đời mình, lúc 72, và tác giả mong thọ được như Bác (79), nhưng thực tế, ông thọ đến năm 83 tuổi mới đi.
Là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam khi mới thành lập Hội (1957), là thành viên nhóm Lê Quý Đôn (Lê Thước, Trương Chính, Lê Trí Viễn…) chuyên dịch văn học Pháp như Những người khốn khổ... Tác phẩm chính: Đôi mắt (thơ), Sơ khảo lịch sử Văn hóa Việt Nam (nghiên cứu (1957), Nguyễn Đình Chiểu (nghiên cứu, 1957), Thơ Baudelaire (dịch, 1995), được Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam về tập thơ này.
Nhân ngày sinh thứ 112 nhà thơ Vũ Đình Liên (13/11/1913-13/11/2025), Ngày Nhà giáo Việt Nam, tác giả viết bài này để cùng mọi người nhớ mãi Ông đồ.
Ông Đồ
Vũ Đình Liên
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?

Ông đồ ngồi viết câu đối Tết trên phố, Hà Nội, thập niên 1920. Ảnh: Làng Việt xưa và nay
Bình luận