Mười sáu tuổi đã viết nên bài hát bất hủ

Trên thế giới, những thần đồng âm nhạc xuất hiện từ rất sớm không ít. Ở nước ta, cũng từng có những người phát lộ năng lực sáng tác từ lúc còn ít tuổi. Nhưng thường chỉ là những bước đi chập chững đầu tiên với những tác phẩm chưa có mấy giá trị. Riêng một trường hợp thật đặc biệt và độc đáo: Ngay từ tác phẩm đầu tiên khi tác giả mới 16 tuổi đã là một kiệt tác khiến người đời sau nhớ mãi.

Mười sáu tuổi đã viết nên bài hát bất hủ - 1  

Đó là Chung Quân (1936 -1988) với bài Làng tôi quá nổi tiếng, ai nghe cũng ưa thích, từ người trẻ đến người già, từ thính giả ở nông thôn đến thành thị, từ trong nước đến Việt kiều ở nước ngoài: “Làng tôi có cây đa cao ngất tầng xanh, có sông sâu lờ lững vờn quanh êm xuôi về Nam…”. Bài hát này giống như nhà thơ Nguyễn Bính, được tất thảy mọi tầng lớp công chúng ưa thích chứ không như nhiều nhà thơ trước cách mạng khác tuy cũng tài giỏi nhưng chỉ có một bộ phận độc giả nào đó hâm mộ. Trong nền âm nhạc hiện đại Việt Nam, có 3 bài hát đều cùng tên là Làng tôi, đều ra đời trong thời kỳ chiến chống thực dân Pháp và đều nổi tiếng (hai bài còn lại của Văn Cao và Hồ Bắc).

Năm 1952, có hai bài Làng tôi ra đời như đã nói, nhất là Văn Cao từng gắn liền với quá nhiều ca khúc lừng lẫy trong đó có Quốc ca, trong khi Chung Quân vẫn còn là cậu thiếu niên vô danh, không ai biết đến. Khi đó, người ta tổ chức làm phim truyện Kiếp hoa, có ý định sẽ tổ chức thi sáng tác ca khúc để chọn lấy bài hay nhất, phù hợp với ý đồ của đạo diễn, đặng làm nền cho phim.

Đây là bộ phim đầu tiên ở Việt Nam có tiếng nói mà trước đó chỉ là phim câm. Rất nhiều người dự cuộc thi này, trong đó có không ít nhạc sỹ đã có tên tuổi. Cuối cùng, một Hội đồng giám khảo gồm những nhạc sỹ và đạo diễn giỏi nhất đã tìm được bài hay nhất của một cậu thiếu niên có cái tên lạ hoắc: Chung Quân.

Bài hát có giai điệu êm ả, mềm mại, duyên dáng dựa trên chất liệu âm nhạc dân tộc với lời ca mộc mạc, dung dị, giàu chất thơ, lồng vào bộ phim. Thế là sau khi chiếu phim được một thời gian, bài hát đã nhanh chóng lan tỏa khắp mọi nơi. Đâu đâu người ta cũng hát: “Làng tôi có cây đa cao ngất tầng xanh…”. Sự nổi tiếng, sức thuyết phục của bài này không thua kém hai bài cùng tên Làng tôi của Văn Cao và Hồ Bắc như đã nói.

Tuy nhiên, nếu hai tên tuổi này hầu như ai cũng quen biết thì cái tên Chung Quân có thể nhiều người chưa nghe. Cũng dễ hiểu. Bởi người nhạc sỹ trẻ này không có dịp tham gia kháng chiến chống Pháp và sau kiệt tác đầu tay, không sáng tác thêm được gì đáng kể. Đúng hơn là Chung Quân cũng có ca khúc Cô gái quê và hợp xướng Sông Bến Hải nhưng không có sức lan tỏa nên ít người biết.

Có lần, tôi được nghe một người từng rất quen biết Chung Quân kể lại: Ông có quê ở thôn Bình An, xã Trung Giã, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Ngày ấy, nơi đây chưa là đất của thủ đô mà thuộc địa phận huyện Đa Phúc, tỉnh Phúc Yên trước năm 1954, Vĩnh Yên và Phúc Yên là hai tỉnh, sau đó mới sáp nhập thành Vĩnh Phúc.

Trong thời kỳ chống Mỹ từng hợp nhất với Phú Thọ thành Vĩnh Phú để về sau lại tách thành Phú Thọ và Vĩnh Phúc như bây giờ). Người bạn của nhạc sỹ kể rằng: Cầu Đa Phúc bắc qua sông Cầu hôm nay là ranh giới giữa thủ đô Hà Nội và tỉnh Thái Nguyên. Ở đầu cầu thuộc phía Hà Nội ngày trước có một cây đa to, tỏa bóng mát xum xuê, có sông Cầu lờ lững chảy và những ngôi nhà “mái tranh san sát kề nhau” với những “lũy tre xanh bên những hàng cau”. Người này khẳng định Chung Quân đã viết về chính quê của mình.

Bây giờ thì cây đa ấy đã bị chặt (hoặc chết) từ lâu, nhà mái tranh dĩ nhiên là được thay bằng nhà gạch vài ba tầng và những lũy tre đã không còn nữa. Có lẽ cách đây mấy chục năm, khi cơ chế thị trường bung ra, tấc đất là tấc vàng thì người ta cũng chặt che đi để lấy đất. Giờ đây chỉ còn con sông Cầu “lờ lững vờn quanh” mà thôi. Nhưng con sông này nếu ngày xưa đẹp bao nhiêu vì chảy viền quanh cái làng quê thơ mộng, êm đềm thì nay bề bộn, ngổn ngang và nhếch nhác bấy nhiêu vì người ta mặc sức khai thác cát bừa bãi mà có lần đã bị phản ảnh trên báo chí.

Sau năm 1954, Chung Quân theo gia đình vào cư trú ở Sài Gòn. Đang có bài hát nổi như cồn, ông được Bộ Giáo dục của chế độ Đệ nhất Cộng hòa trong Nam cho dạy nhạc ở các trường Chu Văn An và Nguyễn Trãi. Học trò của ông có những người về sau cũng trở thành những nhạc sỹ nổi tiếng như Ngô Thụy Miên, Võ Thành An, Nam Lộc…

Tại đây, có lần không biết do sơ xuất điều gì mà chàng nhạc sỹ trẻ bị vị giáo sư toán học Hà Đạo Hạnh nói: “-Cậu nên nhớ cậu được dạy cùng trường với những người như chúng tôi là một vinh hạnh lớn đó…” Lòng tự ái bị tổn thương, Chung Quân bèn thẳng thừng nói lại: “- Vâng. Nhưng thưa giáo sư. Nếu nhắc đến tên tôi thì ai cũng biết. Còn nói đến ông thì có mấy người biết đâu”. Người giáo sư đành im lặng vì chẳng thể nói được gì thêm bởi đó là một sự thật. Thế là từ đó, bên cạnh việc tự rút kinh nghiêm trong ứng xử hàng ngày, Chung Quân nuôi chí “phục thù” về danh dự.

Ông quyết định ra nước ngoài học lên cao hơn. Và sau nhiều năm dùi mài kinh sử ở Mỹ rồi Anh, ông đã đậu bằng tiến sỹ văn chương tại Anh quốc, để rồi lại quay trở về nước tiếp tục dạy học ở Huế cho đến ngày qua đời (năm 1988). Sau ngày 30/4/1975, nhiều trí thức đã ra nước ngoài sinh sống. Nhưng Chung Quân đã ở lại.

Mười sáu tuổi đã viết nên bài hát bất hủ - 2   Mười sáu tuổi đã viết nên bài hát bất hủ - 3  

Ông nói với một người bạn đã từng rủ ông ra đi: “-Mình không thể sống ở đâu ngoài Việt Nam dù tại đó có cuộc sống giàu sang, thuận lợi đến đâu”. Lại có những người đã qua Mỹ, Ca-na-đa…do quá ưa thích bài hát nổi tiếng của ông mà sẵn sàng ủng hộ, tạo điều kiện đón ông sang cư trú ở hải ngoại. Kể cả có đứa con gái tên Thúy Loan đã sang Mỹ muốn bố cùng sang, nhưng ông cũng vẫn từ chối. Ông thổ lộ với nhiều người rằng đến cuối đời sẽ trở ra Bắc sống ở quê. Nhưng tâm nguyện này chưa kịp đạt được thì ông đã sớm qua đời tại TP Hồ Chí Minh khi mới 52 tuổi – độ tuổi sung mãn, chín nhất đối với sự nghiệp  của một người đàn ông, nhất là làm nghề cầm bút.

Tuy là tác giả của ca khúc nổi tiếng nhưng Chung Quân không phải là nhạc sỹ chuyên nghiệp mà cả đời ông làm nghề dạy học. Khi chưa xuất dương du học, ông dạy nhạc. Khi có bằng tiến sỹ văn chương ở Anh, ông về nước dạy văn. Giáo sư Chung Quân luôn để lại cho học trò sự tôn kính, quý trọng. Ấn tượng của họ về ông là một người thầy mẫu mực, chỉn chu, nghiêm túc và luôn tận tụy, có trách nhiệm cao với học trò.

Họ kể lại rằng ông có dáng người cao, điển trai, bao giờ cũng mặc đẹp, tề chỉnh nhất so với các thầy khác với bộ com-lê màu trắng, cưỡi vespa rất “oách”. Ông cũng hát hay, đánh đàn giỏi nên được nhiều bóng hồng để ý. Song, với tư cách nhà giáo của mình, ông luôn giữ sự mực thước trong mọi mối quan hệ. Nghe Làng tôi, ai cũng thấy tác giả cực kỳ ướt át, lãng mạn. Nhưng với phái đẹp, ông luôn giữ khoảng cách cần thiết nên đã không có điều tiếng gì như nhiều nhạc sỹ từng vướng phải trong lĩnh vực này.

Trong việc dạy nhạc, bên cạnh ưu thế có giọng hát hay, Chung Quân còn luôn nghĩ ra các cách dạy để học sinh dễ nhớ bài, nhất là đối với những trò ít năng khiếu. Ví như muốn học sinh nhận ra được các “gam” (âm giai) của những bài hát, ông nghĩ ra hai câu thơ sau đây: “Nhất son, nhị rế, tam la. Tứ mi, ngũ sí, lục pha, thất đồ”. Tức là nếu ở đầu các khuông nhạc mà có một dấu thăng là gam son trưởng (nhất son), hai dấu thăng là gam rê trưởng (nhị rế), ba dấu thăng là gam la trưởng (tam la) … Từ hóa biểu này, ông dặn học trò cách tìm các bài có gam thứ tương ứng không khó khăn gì. 

Chung Quân là một trường hợp đáng tiếc không chỉ bởi ông sớm qua đời như đã nói, mà còn bởi thật uổng phí một năng lực văn học trong con người âm nhạc khi ông đồng thời là giáo sư văn học với bằng tiến sỹ văn chương, lại được tu nghiệp ở nước ngoài. Nghề âm nhạc lại cộng thêm nghề văn thì sẽ rất thuận lợi trong sáng tác ca khúc. Ta thấy rõ ngay ở bài Làng tôi, ngoài sự lôi cuốn của giai điệu đẹp, ca từ cũng rất giàu hình tượng văn học. Điều đáng nói nữa là số phận đưa đẩy khiến ông không đắm mình được vào cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước rồi kế tiếp là những sự kiện sôi động tiếp sau đó của dân tộc ta để tiếp tục sáng tác. Nếu được như vậy, hẳn là tài năng của Chung Quân còn được thăng hoa hơn để hiến tặng đời nhiều tác phẩm hơn nữa, giống như nhiều nhạc sỹ lớn của chúng ta đã trưởng thành từ hiện thực cách mạng sinh động đó./.

None

Thôn Ca

Tin liên quan

Tin mới nhất

Giá trị đặc sắc của Di sản Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương

Giá trị đặc sắc của Di sản Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương

Gần dân, chăm dân – dân quý, dân thờ là yếu tố tạo nên giá trị đặc sắc của di sản tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương. Trong tâm thức dân gian, sự chăm lo và gắn bó gần gũi với số phận sinh tồn, làm ăn và phát triển của cộng đồng dân chúng từ các thế hệ vua Hùng cùng các bậc tiền nhân thuở xa xưa luôn luôn là “một sự thực lịch sử”, cần được ghi nhớ và tri ân.