Tính cách thẳng thắn của một nghệ sĩ tài danh
(Arttimes) - Nguyễn Đức Toàn là nhạc sỹ “độc chiếm” sự thành công riêng trong mảng ca khúc viết về những liệt sỹ, anh hùng đã ngã xuống cho sự trường tồn của tổ quốc.
Ngay từ lúc còn ở tuổi thiếu nhi, tôi đã rất thích hát những bài Quê em (chứ không phải Quê em miền trung du như nhiều người nhầm), Mời anh đến thăm quê tôi, Biết ơn chị Võ Thị Sáu. Lớn lên một chút, tôi biết tác giả những bài hát đó là Nguyễn Đức Toàn (1929 - 2016) - một nhạc sỹ quân đội. Nhưng tôi chưa biết mặt bởi chưa được gặp ông lần nào.
Thế rồi một ngày kia, tôi nhớ rõ đó là dịp chuẩn bị kỷ niệm ngày thành lập Đoàn (26/3/1963), khi tôi đang học 9 trường cấp 3 Chu Văn An (Hà Nội) được nhà trường cử tham gia vào đội hợp xướng rất đông người của học sinh toàn thành phố. Chúng tôi đến tập 2 bài hát tại sân vận động Hàng Đẫy. Một trong hai bài đó là Noi gương Lý Tự Trọng. Người chủ trì cuộc tập dượt lần đó giới thiệu nhạc sỹ Nguyễn Đức Toàn, là tác giả sẽ trực tiếp dạy chúng tôi hát. Sau đó, một người khá cao lớn, mặc quân phục bước ra, tiến gần về phía chúng tôi, phải đến gần một nghìn học sinh ở độ tuổi 16-17. Đó là lần đầu tiên, tôi nhìn thấy Nguyễn Đức Toàn. Nhưng không thể rõ, vì vừa vào buổi tối, vừa đứng ở vị trí hơi xa ông. Một tay Nguyễn Đức Toàn cầm mi-crô, tay kia vung lên bắt nhịp cho số đông tập hát: “Muôn đời sau Lý Tự Trọng còn như ngôi sao mai lấp lánh trên trời cao. Đây tuổi thanh niên đầy mơ ước đã chiến đấu cho tổ quốc…” Bài hát có hai bè. Một mình tác giả dạy cả hai.

Ông dạy say sưa, lôi cuốn chúng tôi tập theo rất hào hứng đến nỗi trời bắt đầu có những hạt mưa lắc rắc mà không bạn nào có ý tìm cách tránh mưa. Ông cất tiếng: - Trời có hạt mưa. Chúng ta hoãn sang hôm khác các em nhé. Không ai bảo ai, tất cả chúng tôi đều nhất loạt đồng thanh nói: - Không sao! Cứ tập ạ! Rất may là không mưa to và nhanh chóng tạnh. Được cử vào đội hợp xướng toàn thành, lại được chính người nhạc sỹ nổi tiếng tập cho bài hát của ông, chúng tôi lấy làm vinh hạnh lắm, chẳng ai thấy mệt nhọc gì. Nguyễn Đức Toàn để lại một gia sản ca khúc đồ sộ, trong đó có những bài được tất thảy mọi tầng lớp công chúng ưa thích. Ngoài mấy bài đã kể trên, còn có: Tình em biển cả, Chiều trên bến cảng, Bài ca người lái xe, Đào công sự, Khâu áo gửi người chiến sỹ… Đặc biệt là nhiều ca khúc về đề tài thương binh, liệt sỹ khiến người nghe rất xúc động: Nguyễn Văn Trỗi sống mãi, Bài hát Ngô Mây, Nguyễn Viết Xuân cả nước yêu thương, Người thày giáo thương binh…
Nhiều bài hát của Nguyễn Đức Toàn được ra đời từ những kỷ niệm, những nguyên cớ và hoàn cảnh khá thú vị. Ví như Hà Nội - một trái tim hồng nếu không có một lần ông bị CSGT tuýt còi do đi vào đường ngược chiều thì có lẽ bài hát đã không được hoàn thành nhanh như thế. Số là sắp đến dịp kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng thủ đô (1994), Nguyễn Đức Toàn được mời sáng tác về Hà Nội. Ông đang loay hoay tìm ý tứ mới vì khi đó đã có nhiều bài hát hay về thủ đô. Người sáng tác mà đang trăn trở tìm tòi thì dễ đãng trí, xao nhãng mọi việc khác. Thế là ông đi vào đường ngược chiều mà không biết. Bị CSGT tuýt còi, ông thành tâm xin lỗi và nói lý do vô ý của mình. Gặp đúng chàng CSGT trẻ yêu âm nhạc, đặc biệt là rất thích bài Chiều trên bến cảng của ông, anh ta đã “tha”, còn chúc ông sáng tác bài về Hà Nội thành công. Anh còn lấy làm hân hạnh được quen biết Nguyễn Đức Toàn và xin ông điện thoại. Thế là sau đó ít ngày, anh gọi điện hỏi thăm ông đã sáng tác xong bài về Hà Nội chưa. Sau kỷ niệm rất đáng nhớ này, Nguyễn Đức Toàn đã có thêm cảm hứng để cho ra bài hát khá nhanh. Ông đã mời người CSGT trẻ đến nhà hát cho nghe. Và đó là công chúng đầu tiên được thưởng thức bài hát nổi tiếng này, tất nhiên là qua giọng hát thô mộc của tác giả.
Đó là bài hát được ra đời từ một kỷ niệm vui, khá độc đáo, ngộ nghĩnh. Lại có bài từ một kỷ niệm buồn, xúc động như bài Tình em biển cả. Nguyễn Đức Toàn kể, ông viết bài này từ sự hy sinh rất anh dũng của đồng chí Đặng Tính khi ấy là đại tá. Vị đại tá này là bạn, lại ở gần nhà Nguyễn Đức Toàn tại Hà Nội. Đầu năm 1973, ông được cử đi chiến dịch cùng với nhà thơ Chế Lan Viên, nhà văn Nguyễn Minh Châu. Ông đã chứng kiến Đặng Tính hy sinh ngay trước mắt mình chỉ rất ít ngày trước khi đại tướng Võ Nguyên Giáp vào chiến trường báo tin hiệp định Paris vừa được ký kết, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Trước cái chết của đồng đội và là bạn mình, Nguyễn Đức Toàn vô cùng thương tiếc và nghĩ miên man về cái giá phải trả cho hòa bình. Từ phút ấy, ông cứ nghĩ phải viết một bài hát nói về điều này. Thế là ngay sau ngày 30/4/1975, khi đất nước ca khúc khải hoàn, giang sơn thu về một mối, ông cho ra đời bài Tình em biển cả với những lời lẽ thật sâu sắc: “Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay. Non nước mây trời lòng ta mê say. Sóng nước trùng dương dài theo bờ cát. Những dãy đảo xa nằm nghe biển hát…” Bài hát không để cập gì đến sự hy sinh, mất mát nhưng âm điệu toát lên vẻ tự hào, lòng yêu tha thiết quê hương đất nước được thanh bình. Nhưng chính từ những hy sinh mất mát vô cùng lớn lao mới có được hòa bình hôm nay và ta càng thêm yêu, nâng niu, trân trọng thành quả lớn lao đó.
Nguyễn Đức Toàn là nhạc sỹ “độc chiếm” sự thành công riêng trong mảng ca khúc viết về những liệt sỹ, anh hùng đã ngã xuống cho sự trường tồn của tổ quốc. Ông đã “khóc” rất hay, rất sâu sắc về thương binh, liệt sỹ. Có lần tôi hỏi ông, vì sao ông chỉ viết về những người đã nằm xuống mà không viết về những người còn sống. Ông thẳng thắn trả lời: Rất đơn giản vì những người đã khuất thì hành vi anh hùng của họ đã được khẳng định. Họ không còn nhưng công trạng, tác dụng của họ vẫn còn mãi. Họ vẫn sống trong trái tim hậu thế. Còn những người đang sống thì không thể biết thế nào. Có thể hôm nay họ là anh hùng nhưng ngày mai họ không còn giữ được phẩm giá tốt đẹp của mình mà thoái hóa, biến chất. Chẳng đã có người như vậy đó sao? Ông cũng cho rằng việc đặt tên đường phố cần phải rất thận trọng, cân nhắc kỹ. Quan điểm của ông là những đường phố nào mang tên quen thuộc từ bao năm nay thì nên giữ nguyên, không nên đổi sang tên người này người khác. Chỉ đặt tên mới là danh tính cá nhân khi là đường phố mới ra đời và người đó phải thực sự có công trạng lớn, được toàn thể nhân dân ngưỡng mộ, biết ơn.
Nguyễn Đức Toàn là một gương mặt rất có cá tính chẳng những trong sáng tác mà trong tính cách cũng vậy. Một trong những nét nổi bật đó là sự thẳng thắn, bộc trực. Ông khó giấu được những vui buồn, nhất là những lúc không hài lòng, vừa ý điều gì. Kỳ Đại hội Nhạc sỹ nào ông cũng phát biểu, đóng góp nhiều ý kiến sắc sảo, chí lý nhưng dễ khiến những người có trách nhiệm mất lòng, thậm chí bị “sốc”. Ví như, có lần sau khi phê phán nhiều khiếm khuyết, hạn chế của những người có trách nhiệm điều hành hoạt động của Hội, ông nói cứ tình trạng như hiện tại thì nên giải tán các hội văn học nghệ thuật, ít nhất là Hội Nhạc sỹ vì không có hiệu quả, vô bổ, chỉ gây mất đoàn kết và tốn kém tiền ngân sách của Nhà nước. Mọi người vỗ tay rào rào, tán thưởng. Không ai nghĩ ông nói vậy vì bất mãn, cay cú điều gì mà chỉ thấy ông quá thẳng thắn, đã nói cái điều mà nhiều người nghĩ nhưng không phải ai cũng dám công khai nói ra. Nói điều trên xong, ông nói tiếp là sẵn sàng chờ đợi việc bị khai trừ ra khỏi Hội. Tuy nhiên, ngay cả những người bị “chạm nọc” cũng cười một cách rất vui vẻ. Nếu là người khác phát ngôn thì dễ bị coi là do cay cú, bất mãn nhưng với Nguyến Đức Toàn thì không thể bởi ông là người có sự nghiệp thành đạt vẻ vang với sự nổi tiếng và những phần thưởng cao quý rất đứng đáng: Được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2000, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhất, huân chương Độc lập hạng Ba.
Một trong những điều ông ghét nhất là sự vô ơn, bạc nghĩa, ăn ở không có tình. Ông kể, có ca sỹ nọ, khi cần bài hát của ông để tham dự một Liên hoan ca hát lớn ở quốc tế thì săn đón, năn nỉ ông đáp ứng. Đến khi may mắn đoạt được giải thưởng lớn thì về nước đã lặn mất tăm, không hề trở lại báo tin vui với ông và có lời cảm ơn. Ông phán một câu như sấm truyền: “Họ ăn ở như thế thì chẳng thể ra gì. Rồi cũng sớm gặp điều dở mà thôi”. Quả như vậy. Người ca sỹ ấy chỉ một thời gian sau đã sớm gặp phải điều rủi ro.

Nguyễn Đức Toàn là nhạc sỹ thì ai cũng biết bởi những bài hát nổi tiếng. Nhưng ít người biết ông còn là họa sỹ với tấm bằng tốt nghiệp trường Cao đẳng Đông Dương danh giá trước đây (những họa sỹ lớn nhất của nền hội họa Việt Nam đều từng học ở trường này ra). Ông nói cả âm nhạc và hội họa đều đam mê. Nhưng để có kinh tế thì ông phải trông vào hội họa vì mỗi bức vẽ bán được hàng chục triệu đồng, còn ca khúc thì chỉ thu được hiệu quả tinh thần vì có nhiều bài nổi tiếng mà ông chẳng thu được một xu nào.
Khi tôi ngồi viết bài này đúng lúc trên chiếc đài truyền thanh của phường vang lên bài Hà Nội - trái tim hồng. Không biết đang đi vào giấc ngủ vĩnh hằng, Nguyễn Đức Toàn có biết những giai điệu của mình còn vang mãi theo thời gian, đi cùng năm tháng?
Nguyễn Đình San NoneBình luận