Hành trình “Ngựa núi” với “Hồi chuông khát”

Trần Hoàng Vũ Nguyên hiện công tác tại Đài Phát thanh - Truyền hình Lâm Đồng vừa vinh dự được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam (Chuyên ngành thơ).Với hai tập thơ “Ngựa núi” và “Hồi chuông khát” tác giả Trần Hoàng Vũ Nguyên đã làm một cuộc hành trình khám phá bản thể tâm hồn mình để tìm mình và tới mình.

Tôi ví chị như một cây liễu bởi dáng vẻ thanh mảnh và dịu dàng của tác giả ngoài đời nhưng lại có sức bền bỉ dẻo dai trong bão gió không dễ gãy như các cây rắn rỏi cứng cáp khác. Và tôi đã tìm “chìa khóa” để giải mã điều bí ẩn này. Một cuộc hành trình không chỉ qua những miền đất chị đã đặt chân đến như một người lãng tử ưa xê dịch mà còn là cuộc hành trình của những con chữ, của những tứ thơ thể hiện rõ nhất bản ngã.

Hành trình “Ngựa núi” với “Hồi chuông khát” - 1

Tác phẩm “Ngựa núi” và “Hồi chuông khát”.

Thơ của chị thể hiện một sự quyết liệt trong vị tha độ lượng, một sự mê đắm đến tận cùng dâng hiến trong tỉnh táo rạch ròi, một sự phân thân trong việc định vị vững chãi. Vó ngựa ấy đã rung lên những “Hồi chuông khát” cháy bỏng. Không phải là tiếng lục lạc đeo ở cổ ngựa mà là những hồi chuông rung vọng trong một trái tim đắm đuối thiết tha. Một cuộc hành trình: “Quăng câu thơ ngược gió” để: “Và tôi lại viết… tự trần trong suốt để kiểm duyệt trên hành trình nhận ra mình không cô độc”.

Tôi đã đến Đà Lạt nhiều lần và đã gặp Trần Hoàng Vũ Nguyên vài lần. Cảm nhận khi đầu tiên gặp chị là một người con gái rất nữ tính và đằm thắm, một nữ ký giả truyền hình năng động thông minh chỉn chu công việc.

Tôi nhớ lần chị lái xe đưa tôi vào mấy người bạn viết văn thăm đường hầm Đất Sét Đà Lạt. Tay lái lụa của chị khá uyển chuyển với những câu chuyện dí dỏm khi ngoặt qua những đường cua hiểm trở. Nhìn chị tôi thấy sự yên lòng với một gương mặt bình thản hơi đượm buồn nụ cười duyên dáng. Điều đó càng tăng thêm cảm giác tin cậy khi đồng hành với chị với những câu thơ tự do mà chính nhạc điệu đã ngân vọng, đã níu kéo, đã gợi mở trường liên tưởng khi khám phá cái tôi của nữ thi sĩ với những giãi bày chân thành chia sẻ.

Nhiều lúc tôi cố tìm trong thơ chị các địa danh chị đã đến nhưng không thấy cụ thể rõ rệt về địa hình, địa lý chỉ có lưu dấu ấn “địa danh tâm hồn” khi chị muốn bày tỏ giao cảm muốn hóa thân. Ví như đến Lạng Sơn chị gặp: “Em không là Tô Thị ngàn năm/ Và không đứng yên chờ đợi” (Phía trước mùa xuân). Lên Tây Nguyên chị thấy: “Ơ hơ… Tây Nguyên mùa bắt chồng” (Mùa chồng). Hay đến Đồng bằng sông Cửu Long để: “Câu vọng cổ  da diết chín ngã sông tím lục bình” (Sao không cùng say). Như vậy đi với chị là một cuộc tìm lại mình, khám phá mình chiếu rọi mình qua lăng kính văn hóa của từng miền đất. Và chị đã tìm được mình, tìm được thơ.

Cái “căn cước” cốt lõi bản thế ấy chính là ở sự độc đáo hóa thân của Trần Hoàng Vũ  Nguyên. Và điều này cũng cắt nghĩa được sự ham thích du lịch, ưa xê dịch của chị chính là đi để tìm về. Và chị đã tìm về Đà Lạt ngay từ bài thơ đầu tay của mình đó là “Đồi thông kim” cũng là bài thơ duy nhất có ghi thời gian sáng tác: ngày 07 - 07 - 2008.

Con số 7 cũng như số điện thoại của chị cả một dãy số 7 đã vận vào đời thơ chị như là một bản mệnh - con số của nhà Phật! “Đồi thông kim” không còn địa danh nữa mà đây chính là “địa chỉ tâm hồn” nơi: “Tôi vọc thời gian trong ký ức của cuộc đời/ Kiếm tìm mệt  mỏi/ Trên đồi túa những lá thông kim/ Chân trần  tứa máu”. Như một dự cảm chăng? Thi sĩ thường khá nhạy cảm với linh diệu, linh ứng của mình để chị thảng thốt: “Tôi một mình xa xót tôi”. Một sự đơn độc như con chiến mã phi những bước chân trần trên đường đời gập ghềnh. Phải có một bản lĩnh tự tin, phải chiêm nghiệm lắm chị mới “xa xót” không phải vì cái nhìn vuốt nhọn của lá thông kim mà chị định vị để thêu dệt vào mình tấm áo giáp vô hình mỏng mảnh nhưng bền vững.

Với một bài thơ khác viết về Đà Lạt nơi chị đã gửi gắm bao ký ức cuộc đời mình: “Em, xanh một đời bí ẩn/ Phơi trần tình thế nguyên sơ” (Lang Bian). Tôi thích một “Phố đêm” như một bản giao hưởng với nhiều cung bậc nhiều tự vấn, nhiều day dứt thành thật đến nao lòng. Trần Hoàng Vũ Nguyên là thế - Thơ không phải là âm bản nước mắt mà thơ còn là sự cứu cánh, cứu rỗi: “Con ngựa núi với trái tim lửa giã từ nhé/ Tạm biệt hay vĩnh biệt/ Không… không/ Không muốn.../ Nhổ  neo nơi này/ Những tế bào đột biến trở dậy cuốn tôi bay trong màu xám lạnh”. Ngôn ngữ thơ của chị là ngôn ngữ trình bày, sức va chấn vì thế cũng rất đỗi mê đắm tin cậy. Như chị đã quan niệm đã tự viết lời tựa cho thơ mình: “Viết là thực hiện một chọn lựa, đồng thời là một định mệnh…”

Hành trình “Ngựa núi” với “Hồi chuông khát” - 2

Chân dung tác giả

Tôi cho rằng thơ đến với chị là tất yếu định mệnh. Điều đó cũng  cắt nghĩa được vì sao cả hai tập thơ chị đều viết rất nhanh trong khoảng thời gian năm 2008 - 2011. Một sự giải thoát chăng? Có một sự va chấn thổn thức nào đó mà nhiều tên bài thơ của chị như là một khẳng định một nhận xét khá rạch ròi sòng phẳng : “Di căn “Nhân chứng”; “Bẽ bàng”; “Tàn cuộc”… Thơ chị nghiêng về sự thiệt thòi thiếu hụt nhưng chính thơ lại là điểm tựa tinh thần vững chãi. Năng lượng thơ chắp cánh thêm năng lượng cuộc sống  đã thôi thúc thi sĩ  gióng lên: “Hồi chuông khát”.

Đọc thơ Trần Hoàng Vũ Nguyên tôi thấy dấu ấn thời gian rất rõ. Chị là người tinh tế và nhạy cảm với những định lượng khoảnh khắc thời gian, những bất chợt tâm trạng. Vì thế mà kết những bài thơ thường rút ngắn ngọn như một viên bi đá ném vào mặt nước cho tỏa những vòng sóng tương tư: “Hun hút mùa/ Nén nhang tàn/ Lặng lẽ ngày rơi” (Ngày rơi!); hay: “Tiếng chuông nhà  thờ thứ bảy/ Nhân chứng cho buổi chiều chẳng biết về  đâu/ Mưa hào phóng/ Trong vô tình/ Giông tố” (Nhân chứng). Tôi chợt nhớ đến một sự đơn côi lẻ loi thân phận trong một câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Thi Hoàng “Có những chiều không biết cất vào đâu”.

Thời gian trong thơ chị là thời gian tâm trạng. Có cảm giác chị luôn nuối tiếc và ký thác đợi chờ: “Đêm trầm mặc” hay “Hạnh phúc chiều” hoặc “24h tình nhân”. Đây không phải là những định ngữ mà là những dấu ấn những “mốc” để đo những cột số trên chặng đường đời có phấp phỏng, có lo toan nghĩ ngợi có thẩm thấu nhưng bao trùm lên vẫn là căn cốt nhẹ dạ, vị tha, độ lượng nhân ái giàu nữ tính.

Thơ của Trần Hoàng Vũ Nguyên đâu phải chỉ có cái tôi mà ở đây còn nhuốm màu thân phận giao cảm của bao người. Họ sẽ được “đọc” ở đó ánh xạ của tinh thần mình ít nhất là cũng được đồng cảm sẻ chia. Chính cái riêng tư cái đơn độc đã cho chị sự cảm thông sâu sắc đối với những cuộc đời thiệt thòi. Và đây với bài thơ “Mộ gió” chị đã có một tiếng nói tri ân tâm linh và cảm động lan tỏa tính nhân văn cao cả. Đây là một trong những bài thơ hay. Chị viết: “Em lập đàn cúng chiêu hồn ròng rã/ Gọi hình nhân nhập lại trái tim người”. Một hình hài được lắp ghép bằng: “Chè cây dâu: Xương sườn người đứng/ Vóc đất nước mắt/ Sống lá gan/ Cắn tay mình quét cho da anh rạng rỡ”.

Tôi là người dân biển đã chứng kiến người chết biển mất tăm tích trong ngầu ngầu bọt sóng và họ đã hóa thân vào gió vào đất đai Tổ quốc. Tôi lại nhớ đến những ngôi mộ gió của bao chiến sĩ hải quân, của những đoàn tàu không số mà sau này nhà thơ Trịnh Công Lộc cũng đã viết bài thơ “Mộ gió” nổi tiếng: “Chạm vào gió như chạm vào da thịt/ Chạm vào buốt giá Hoàng Sa”. “Mộ gió” của Trần Hoàng Vũ Nguyên đã chạm được vào nỗi lòng cõi người vĩnh cửu: “Hoàng hôn gió, âm âm lời kinh cầu tế độ/ Vọng vong tình/ Hút mắt nghe vòng nắng chở biệt ly”. Thơ của chị đã ảo hóa hiện thực với rất nhiều cảm giác…

Có một điều khá đặc biệt trong hai tập thơ này là chất âm nhạc và hội họa khá rõ, sắc màu thường chói gắt và giai điệu thường nhảy quãng. Rất nhiều khoảnh khắc bất chợt của nhiếp ảnh vẽ bằng ánh sáng từ những góc độ ống kính đến góc mở tâm hồn se sắt mà sâu lắng. Chính hợp âm bè trầm này đã giao thoa các loại hình nghệ thuật tạo ra những âm vực tứ thơ có lúc chênh chao mà không hụt hẫng, bay bổng mà không phiêu lưu. Trần Hoàng Vũ Nguyên trình bày một cách chân thành da diết nhất những trải nghiệm đã qua, những xót xa đã nếm và những khát vọng dồn nén để thăng hoa. Hy vọng dây cương của “Ngựa núi” sẽ căng hơn, gấp gáp hơn vó ngựa sẽ tung bờm theo tiếng gọi trái tim rung lên  hòa âm, hợp âm của những “Hồi chuông khát” để có thêm những sáng tạo mới cho những tác phẩm mới!

Nguyễn Ngọc Phú

Tin liên quan

Tin mới nhất