Thiên tình sử Nguyễn Du
(Arttimes) - Thi hào Nguyễn Du ra đời tại phường Bích Câu, thành Thăng Long, vùng đất mãi còn in đậm thiên diễm tình Tú Uyên - Giáng Kiều; cũng là nơi ngôi sao Văn Giang - Đoàn Thị Điểm từng một thời làm say lòng biết bao chàng trai văn nhân, phong lưu mã thượng.
Từ vùng đất muôn tía nghìn hồng đó; Nguyễn Du từng có dịp lại qua quê mẹ: làng Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn (nay là làng Kim Thiều, xã Hương Mặc, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), vùng quê quan họ người đẹp hát hay, lừng lẫy tiếng tăm “Nước non băm sáu giọng tình đơn ca”... mà Nhị Hà dạt dào sóng nước kia là con sông dẫn lối đưa đường, tình sâu như nước. Đó là con sông một thời long lanh soi bóng bà Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du, viên ngọc bích lộng lẫy từ vùng đất mộng mơ về làm người nâng khăn sửa túi cho bậc đại quan chốn kinh thành. Vậy nên, những mơ màng, say đắm thuở ban đầu sớm chớm nở ở chàng trai đa cảm mới lớn, chỉ chờ dịp là bừng lên, vượt ra ngoài chốn thâm nghiêm kim môn ngọc bội.
Dịp may mắn đó đã tới: Tuổi học trò, phải theo học một lão nho ở bên kia bờ Nhị Hà, nên Nguyễn Du thường qua sông trên chiếc đò của cô Đỗ Thị Nhợt. Gọi là Nhật có lẽ cũng hợp, vì nàng khác nào những tia nắng mặt trời lóe lên trên cảnh sống tối tăm, nghèo nàn nơi bờ sông bến nước. Đôi mắt trong sáng, mái tóc đen dài thướt tha trước gió, giọng nói mượt mà với dáng điệu khua chèo thật duyên dáng của nàng khiến chàng thư sinh ngây ngất mà chưa dám ngỏ lời. Cho tới một buổi trưa kia, nàng chèo thuyền ra muộn, thừa lúc vắng khách chàng mới ướm lời:
Ai ơi chèo chống tôi sang Kẻo trời trưa thật lỡ làng tôi ra Còn nhiều qua lại lại qua Giúp cho nhau nữa để mà...Chàng cố ý không đọc hết câu. Nàng thắc mắc giục giã. Chàng tần ngần: “Phải do cô nương nói chứ; tôi đâu dám thêm vào”. Nàng vừa khua chèo, vừa khẽ ngâm, vẻ ngượng ngùng:
Giúp cho nhau nữa để mà quen nhau.Từ đó, hai người càng thân thiết. Rồi một buổi bến đò quạnh vắng; nàng nhìn chàng âu yếm thủ thỉ: "Bây giờ có thể thay chữ “quen” thành chữ "thương” được, cậu Chiêu nhỉ?”. Chàng ngây ngất sung sướng ngâm:
Xưa quen nay đã nên thương Cùng nhau se mối tơ vương chữ tình Người xinh xinh, cảnh xinh xinh Trên trời dưới nước giữa mình với ta.Ngọn lửa tình đã cháy lên, tưởng không gì dập tắt nổi. Đáng tiếc thay, thời phong kiến đòi hỏi phải môn đăng hộ đối; vậy con quan Tề tướng làm sao có thể lấy cô lái đò làm vợ chính? Việc đến tai gia đình, Nguỵễn Du bị quở trách, đò ngang thay người lái. Con sông Hồng đỏ nặng phù sa thành con sông than thở mang nặng tình hận, mãi mãi còn lan xa chứa chan những vần thơ đau đớn của Nguyễn Du:
Yêu nhau những muốn gần nhau Bể sâu trầm trượng, tình sâu gấp mười Vì đâu cách trở đôi nơi Bến nay còn đó nào người năm xưa! Minh họa: SHKhông thể kéo dài tình cảnh này mãi, anh ruột Nguyễn Du là Nguyễn Khản, quan đại thần nhà Lê - Trịnh hướng em sang một phương khác ổn định: Đưa Nguyễn Du về làng Hải An, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam làm con rể Hoàng giáp Đoàn Nguyễn Thục. Hải An nay là thôn Hải Yến, xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Xưa đất này có tên Nôm là Hới Gạo. Có nhiều cách giải thích khác nhau, một trong những thuyết cho rằng có tên gọi đó là vì nàng Đoàn Thị, tần tảo hạt gạo nuôi chồng “Góp phần làm đẹp tâm tình thi nhân”. Xưa, đất này rợp trời chim yến bay ra phía biển, hướng vể phía Đông Nam là cả vùng trời rực rỡ tươi vàng, dạt dào gió mát, nên có danh lừng lẫy: “Phong Nguyệt Sào”. Chiều chiều, Nguyễn Du cùng anh vợ (Đoàn Nguyễn Tuấn); hoặc có những khi cùng người vợ yêu đến đây thưởng ngoạn trăng gió, ngắm những cánh buồm ra vào nơi cửa biển mà mơ màng, say đắm. Phải chăng tình này, cảnh ấy đã gợi cảm hứng cho Nguyễn Du viết những câu Kiều sau này:
Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.Sống bên nàng Đoàn Thị hiền dịu, thông hiểu kinh truyện, biết cư xử trên dưới đúng mực, Nguyễn Du dần dần khuây khỏa mối tình lãng mạn bị lỡ dở trên sông Nhị. Nhưng rồi Nguyễn Du cũng không ở được lâu trong tổ yến oanh ríu rít, trăng gió quần tụ ấy. Nguyễn thì ra Bắc vào Nam; còn nàng Đoàn bỗng nửa đường đứt gánh để lại một cậu con là Nguyễn Tứ nhỏ dại. Nỗi niềm thương nhớ người vợ tấm cám này được thể hiện trong bài thơ Ký mộng của ông, tả lại buổi gặp lại nàng trong mộng dưới chân núi Hồng. Nàng nắm tay chồng sùi sụt kể lể...
Không thể gà trống nuôi con buồn tẻ mãi, theo lời khuyên bảo của họ hàng, Nguyễn Du lấy người vợ kế họ Võ cùng quê ở Nghi Xuân, sinh tiếp người con trai nữa đặt tên là Nguyễn Ngũ. Sau ông còn lấy thêm người vợ thiếp nữa, làm cho nhân khẩu gia đình tăng thêm gấp bội, sinh kế khó khăn như có lúc ông đã viết: “Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng” (Mười đứa con thơ xanh tựa rau).
Nhưng trong tình sử, không ai cân tài cân sắc với Nguyễn Du bằng bậc tài nữ chốn Long Thành, mà trước đây ông đã có một mối duyên kỳ ngộ gặp nàng ở Hồ Tây, dưới bóng Cổ Nguyệt đường lung linh nước bạc trăng soi. Nàng quê gốc ở xứ Nghệ, dòng dõi ông nghè Quỳnh Đôi (học trò cũ của cha Nguyễn Du?) với hương ngát mùa xuân tên đẹp họ Hồ. Hai người cùng đi hái sen, bên nhau trên một con thuyền. Nhìn cô gái mặn mà duyên dáng “xắn gọn quần cánh bướm” in hình trên mặt nước hồ long lanh; càng tăng vẻ diễm lệ, mơ màng. Nguyễn Du càng say sưa, muốn gửi gắm nàng những tâm sự khát khao thầm kín. Và chính nàng đã thực sự trao tặng trái tim say đắm cho chàng thi nhân đa cảm, đồng điệu ấy. Thế nhưng Nguyễn Du nghĩ lại thân phận mình, đã gần 30 tuổi đầu, sinh kế khó khăn, cuộc đời long đong chưa định hướng sao có thể đèo bòng vợ nọ con kia? Vậy Xuân Hương: “Ta với nàng chỉ có thể xem nhau như đôi tri kỷ cùng một lứa bên trời lận đận, sao có thể tính đến chuyện xa hơn?”.
Thế rồi gần hai mươi năm sau, gặp dịp đi sứ Trung Quốc qua Thăng Long, Nguyễn Du lại nhận được bài thơ Nôm với đầu đề Cảm cứu kiêm trình Cần chính điện học sĩ Nguyễn Hầu:
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung Mượn ai tới đấy gởi cho cùng Chữ tình chốc đã ba năm vẹn, Giấc mộng rồi ra nửa khắc không. Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập Phấn son càng tủi phận long đong Biết còn mấy chút sương siu mấy Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong?Nhưng vì việc công quá gấp, Nguyễn Du sao có thể tìm gặp được nàng, cũng không thể viết thư cho nàng. Viết để cho nàng sầu hận ư? Có nỡ nào? Vậy thôi “Trăm năm đành phụ với đầu xanh”. Vào gần cuối đời (năm 1819) Nguyễn Du lại nhận được tin dữ: viên quan Tham hiệp An Quảng Trần Phúc Hiển, chồng Hồ Xuân Hương bị xử tử... Việc này làm ông than thở mãi không nguôi: Ôi! Hồ Xuân Hương, làm sao đến tuổi này vẫn “tủi phận”, "bảy nổi ba chìm” và bản thân mình gần đất xa trời vẫn cứ dằn vặt sầu ôm mãi mối hận tình?
Ở tuổi xế chiều ấy, Nguyễn Du còn hồi ức, nhấm nháp những cay đắng ngọt bùi của một mối tình khác nữa trong quá khứ. Ông nhớ lại cái thời 20 tuổi ở quê nội Nghi Xuân. Đất này từng là chốn đàn ca ngân vang các điệu hát ví, hát dặm và hò vè, đối đáp trên sông nước. Làng Cổ Đạm cách Tiên Điền khoảng 6km là vùng ca công tưng bừng không kém gì Thăng Long, Nguyễn Du từng đến đây rồi kết thân với một vài đào nương nổi tiếng, trong đó có nàng Nguyệt, danh ca tài sắc lẫy lừng bậc nhất; mà sau này ông thật sự rung động ngợi ca:
Non bồng sa xuống một cành xinh Sắc đẹp màu xuân nức sáu thành.Đáng tiếc thay, thi nhân chưa ngỏ lời thì nàng đã “Nửa chừng xuân thoắt gẫy cành thiên hương”. “Cành xinh” diễm lệ ấy lìa đời trong cảnh ốm đau nghèo khốn, không ai chăm sóc. Nguyễn Du được tin tìm sang thôn Triều Khẩu thắp hương và đọc vần thơ đẫm lệ Điếu La thành ca giả trên mộ nàng.
Làng Trường Lưu cách quê gốc Tiên Điển một con sông (có chuyến đò ngang ở bến đò Cài) và một cái truông (truông Cộng Khánh trong rú Ngàn Hống) là vùng quê của những đêm hát phường vải; những câu ví giao duyên từng làm xao xuyến lòng người, Nguyễn Du thường hay qua lại nơi đó. Giai thoại kể rằng: Một buổi chiều Nguyễn Du đến bến đò Cài thì gặp mưa gió, không nơi trú ẩn. Một cô lái đò không quản gian nan, một mình lái đò sang đón, xông pha trong gió bão, vừa giữ vững tay chèo vừa hát, lời hát còn vang vọng mãi trong lòng thi nhân:
Sóng to thuyền bé khó sang Em nguyện thiên địa giúp chàng một phen.Có một cô gái Trường Lưu từng say đắm Nguyễn Du, lâu ngày không gặp lại, đã bỏ cả nghề kéo sợi, vò võ tương tư rồi chiều chiều ra bến đò Cài đăm đắm trông ngóng. Một văn nhân tài ba bên họ ngoại Nguyễn Du, theo yêu cầu của cô gái ấy đã làm bài thơ gửi Nguyễn Du. Đọc những vần thơ:
Trời làm chi cực bấy trời Cơi trầu này để còn mời mọc ai? Tim gan để hắt ra ngoài Trông theo truông Hống đò Cài biết đâu...?Nguyễn Du thấy dạt dào xúc động. Ông mượn lời người Phường Nón làng Tiên Điền để đáp lại bài thơ Phường Vải vừa an ủi người con gái, vừa giãi bày lòng mình:
Hồng Sơn cao ngất mấy trùng Đò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu…Mang bài thơ Mượn lời người trai Phường Nón sang trả lời, Nguyễn Du mới thấy điệu hát Phường Vải nơi đây mất hẳn lối ví von làm rung động lòng người ngày trước. Hỏi lý do thì ông được biết, hai nữ tài tử kiệt xuất của làng là cô Sa, cô Uy, những người thuở xưa từng cùng ông tình tự; nay đã lấy chồng nơi xa, trai Trường Lưu không đủ tài giữ lại. Thể theo yêu cầu của người làng; Nguyễn Du đã làm bài Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, giọng văn có vẻ đùa cợt nhưng vẫn không giấu được tình cảm của ông đối với hai cô.
Càng thấm thìa các mối tình của mình, Nguyễn Du càng thông cảm với những mối tình của người: những nàng Tiểu Thanh (trong Độc Tiểu Thanh kí), nàng Cầm (trong Long thành cầm giả ca), nàng Kiều (trong Đoạn trường tân thanh)... Niềm thông cảm mênh mông, sự xót xa vô hạn, tình yêu tràn ngập của ông đã tập trung nỗi đau tận cùng vào kiếp người; để thét lên lời vang vọng muôn đời: “Đau đớn thay, phận đàn bà”. Ôi, những số phận tài hoa, những kiếp đời bạc mệnh đã ấp đầy trong thơ ca ông!
TS ĐINH CÔNG VỸ NoneBình luận