Jerusalem, di sản văn hóa của nhân loại
Trong cuộc hành trình từ đất Thánh Vatican, Roma, Italia lần đầu tiên tôi đặt chân lên Thánh địa Jerusalem vào một chiều cuối hè, nắng nóng như thiêu như đốt. Nhiệt độ ngoài trời trên 400C, đặc biệt khi đi qua sa mạc Kumeran, nằm cách bờ Biển Chết (Dead Sea) không xa, nhiệt độ lên đến 450C.
Jerusalem theo tiếng Do Thái là Jerushalayin, có nghĩa là “Hòa bình sẽ xuất hiện”, hiện do Nhà nước Israel quản lý. Jerusalem nằm ở độ cao 800 mét so với mực nước biển. Jerusalem tọa lạc giữa Địa Trung Hải và Biển Chết. Phía Đông giáp Tel Aviv, Nam giáp Ramallah, Tây là thành phố Jericho và phía Bắc là Bethlehem của người Palestine.
Xe chúng tôi lượn quanh qua những ngọn đồi thâm thấp toàn sỏi đá, chạy men theo bờ Địa Trung Hải lô nhô những tòa nhà chung cư cao tầng của người dân bản xứ. Bỗng nhiên xe dừng lại, hiện ra trước mắt là bức tường đá rêu phong cao sừng sững, với 7 cửa tò vò ra vào, khiến tôi nhớ tới Kinh thánh Hebrew nói về thành phố cổ Jerusalem đã có cách nay hàng ngàn năm lịch sử, được xây dựng thời Canaan và bị người Jébuse chiếm đoạt vào thiên niên kỷ thứ II trước Công nguyên.
Nhà hát cổ ngoài trời
Sau đó được vua David đánh chiếm lại và xây thành thủ đô của Vương quốc Israel thống nhất và vua Salomon cho xây dựng ngôi đền thờ Do Thái giáo đầu tiên, nhưng đã bị tàn phá khi Jerusalem bị quân La Mã thôn tính. Đến năm 637, Jerusalem bị người Ả Rập chiếm đóng, Jerusalem trở thành Thánh địa của người Hồi giáo. Theo truyền thuyết của người Hồi giáo dòng Sunni, Jerusalem là nơi dừng chân trong cuộc hành trình “Đêm kỳ bí” của nhà tiên tri Mohammed và từ đỉnh cao của ngọn đồi Moriah, Mohammed đã bay về Trời. Do đó, người Hồi giáo coi Jerusalem là thành phố quan trọng thứ 3 sau Mecca và Medina. Như vậy, Jerusalem trở thành Thánh địa chung của 3 tôn giáo: Do Thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo.
Vào khoảng năm 1099, trong cuộc Thập tự chinh đầu tiên Godefroy de Bouillon đã chiếm được Jerusalem. Năm 1250, quân Ả Rập và Mông Cổ sau khi chiếm được Jerusalem thi nhau tàn phá. Tiếp đến lại bị người Mamelouk và Thổ Nhĩ Kỳ thay nhau thống trị. Năm 1922, Jerusalem trở thành thủ đô của Nhà nước Palestine, dưới sự ủy trị của Anh Quốc, sau khi bị quân đội viễn chinh Allenby thôn tính. Năm 1945, những người Do Thái sống lưu vong ra sức hoạt động thành lập Nhà nước Israel có chủ quyền và lãnh thổ. Năm 1948, một Nhà nước Israel ra đời. Vào lúc này, Jerusalem theo quy chế là một thành phố quốc tế.
Cổng thành cổ Jerusalem
Hướng dẫn viên kể với chúng tôi rằng: Cuộc sống của dân chúng ở đây đang yên ổn, thì vào cuối năm 1948, cuộc xung đột đầu tiên nổ ra giữa người Israel và người Ả Rập, dẫn đến việc phải chia Jerusalem thành hai khu vực bởi một bức tường và hàng rào dây thép gai. Phần phía Đông Jerusalem do người Jordan quản lý, phần phía Tây Jerusalem là của người Israel. Nhưng đến năm 1967, trong cuộc chiến 6 ngày, người Israel đánh chiếm luôn phần đất phía Đông Jerusalem của người Ả Rập và tuyên bố Jerusalem thống nhất là thủ đô vĩnh viễn của Nhà nước Do Thái, trong đó có khoảng 600.000 người Israel và 200.000 người Palestine sinh sống.
Phần lớn trong khu đất Thánh Jerusalem có nhiều di tích lịch sử. Tại đây, mỗi cộng đồng tôn giáo đều có khu phố riêng. Khu Cơ đốc giáo ở phía Tây thành phố, nằm quanh mộ Jesus. Khu Hồi giáo nằm về phía Đông Nam thung lũng Cedron.
Du khách đến thăm Jerusalem không lấy làm lạ, bên cạnh việc buôn bán ồn ào là tiếng râm ran đọc kinh cầu nguyện, tạ ơn và tiếng chuông nhà thờ ngân vang hòa trong tiếng hát nhịp nhàng.
Phế tích ở Jerusalem.
Nghĩa địa của các tôn giáo cũng tập trung cạnh nhau trên các ngọn đồi trọc, đầy sỏi đá, điều đó đủ nói lên mối quan hệ máu thịt của những tín đồ này đã trải qua bao đời nay chung sống với nhau.
Từ trên một ngọn đồi cao, nhìn ra bốn phương tám hướng là hình ảnh một Jerusalem hiện đại với những tòa cao ốc, những khách sạn sang trọng, là nhà hát, thư viện, hý trường là những tiệm ăn nổi tiếng từ xa xưa. Sau những bức tường đá rêu phong theo năm tháng là những con phố nhỏ, những ngõ ngách ngoằn ngoèo có mái vòm, đường lát đá tảng theo thời gian đã bị mòn vẹt, hai bên phố là những cửa hàng, cửa hiệu nằm sâu hun hút, đã tồn tại qua nhiều thế kỷ. Bên dưới các cửa tò vò là những người bán hàng rong, rao hàng bằng nhiều thứ tiếng khác nhau: Ả Rập, tiếng Yiddish, tiếng Hebrew, tiếng Armenia, tiếng Ba Lan, tiếng Anh...
Trong các phố nhỏ, ngõ nhỏ ô tô không đi được, các phu khuân vác vẫn phải vác các kiện hàng nặng như xưa. Nếu ngoại trừ những hàng tiêu dùng hiện đại như TV, tủ lạnh, điện thoại di động, điện thoại thông minh... đang bày bán ở đây, thì người ta khó lòng đoán định thành phố Jerusalem đang ở thế kỷ nào. Bởi Jerusalem vẫn còn nguyên vẹn những công trình thời vua David cách nay khoảng 1.000 năm trước Công nguyên.
Trên quảng trường rộng nửa dặm vuông của thành phố này, các thế hệ con cháu xa xưa đang sinh sống trong 4 khu riêng biệt: Armenia, Do Thái, Hồi giáo và Cơ đốc giáo. Người Armenia thờ phụng trong các ngôi nhà thờ Thánh James. Người Do Thái chiến đấu và hy sinh hàng triệu người để giành quyền thờ phụng ở bức tường phía Tây (Western Wall), còn gọi Bức tường Than khóc là nơi linh thiêng nhất đối với người Do Thái. Bởi sau cuộc chiến với La Mã, ngôi đền thứ hai của họ bị người La Mã san bằng, chỉ còn lại Bức tường Than khóc ngày nay. Tại đây, ngày ngày người Do Thái tới đứng hoặc ngồi úp mặt vào bức tường than khóc và râm ran đọc kinh cầu nguyện.
Còn người Cơ đốc giáo theo con đường khổ hạnh - The Via Dolorosa- hay còn gọi đường Thánh giá, nơi Chúa Jesus đã vác cây Thập giá từ địa điểm bị phán xét tới nơi bị đóng đinh, nhưng cuối cùng Chúa đã sống lại sau đó 3 ngày. Via Dolorosa được thiết lập từ thế kỷ XVIII, dựa trên sự kiện Chúa Jesus bị đóng đinh vào thế kỷ thứ I. Con đường này dài khoảng 1km, người ta đặt 14 trạm, biểu thị các sự kiện được đề cập trong Tân Ước. Ở cuối con đường này là mộ của Chúa Jesus.
Phố cổ Jerusalem có vòm mái che.
Đối với tín đồ Cơ đốc giáo, nơi quan trọng nhất là nhà thờ Mộ Chúa (Chuch of the Holy Sepulcher), còn gọi nhà thờ Phục sinh. Nơi này được cho là địa điểm Chúa bị đóng đinh vào thập giá. Bên trong nhà thờ Mộ Chúa đặt một tảng đá đánh dấu nơi hạ Chúa Jesus xuống từ thập giá. Khi vào đây, mọi tín đồ Kitô giáo đều quỳ xuống, áp mặt hôn lên phiến đá và cầu nguyện. Trên tầng hai, nơi đặt bàn thờ tại chỗ Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập giá. Trong cùng là mộ Chúa.
Riêng người Hồi giáo đến nhà thờ đá, nơi hội tụ của 3 tín ngưỡng lớn, bao quanh phiến đá Thiêng có tên là Sakkra, nằm ở địa điểm cao nhất trên núi Moriah, nơi mà Giáo trưởng Abraham trói con trai mình để làm vật tế sinh và cũng chính tại đây, nhiều thế kỷ sau nhà tiên tri Mohammed đã lên ngôi Thánh Allah và bay về Trời từ khối đá này. Nơi đây, được gọi là Núi Đền (Temple Mount) là đền thờ khối đá (Dome of the Rock). Đó chính là ngôi Thánh đường Thạch vòm, tọa lạc ngay cạnh Bức tường Than khóc, một ngôi nhà 8 cạnh, được xây bằng những đá, trùm lên khối đá Thiêng Sakkra, với chu vi 160m. Phần vòm cao 83m, bằng gỗ, ngoài phủ một lớp tôn mạ đồng thau vàng óng. Các cột bằng đá hoa cương. Thánh đường Thạch vòm là một công trình kiến trúc tiêu biểu của Hồi giáo có sự kết hợp hài hòa của hai nền nghệ thuật Đông Tây.
Jerusalem không rộng lắm, nhưng sở hữu nhiều công trình kiến trúc lịch sử tôn giáo. Mặc dầu trải qua bao thăng trầm lịch sử với những cuộc chiến đẫm máu, thành phố bị tàn phá nặng nề, nhưng Jerusalem rất tự hào là một thành phố ngoài những di tích lịch sử, còn có nhiều bảo tàng rất có giá trị như Bảo tàng Eretz Israel có bộ sưu tập đồ cổ gồm các di vật còn lại của đền Phillistin tại Tel Quasila, Viện Bảo tàng Diaspora, giới thiệu về quá trình lịch sử của người Do Thái ...
Thành phố Jerusalem được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa của nhân loại năm 1981. Tuy vậy, Jerusalem vốn được coi là nơi bắt nguồn của những xung đột dai dẳng tại “chậu lửa” Trung Đông. Israel thì tự nhận toàn thành phố Jerusalem gồm cả phần phía Đông (vốn của người Palestine), nhưng bị Israel chiếm trong cuộc chiến năm 1967 là thủ đô vĩnh viễn của mình. Trong khi đó, Palestine coi Đông Jerusalem là thủ đô của Nhà nước mà họ muốn thành lập trong tương lai ở Bờ Tây và dải Gaza.

Tula là một trong những địa danh lịch sử nổi tiếng của xứ sở bạch dương, nơi sản xuất vũ khi đầu tiên của nước...
Bình luận