Một lớp sinh viên trưởng thành cùng đất nước
Tháng 6 năm 2022 này, sinh viên Khoa Ngữ văn, khóa VIII, Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia) kỷ niệm 55 năm ra trường. 55 năm với lịch sử đất nước thì không dài nhưng là quãng thời gian đủ để một thế hệ đi từ khởi điểm của tuổi thanh xuân đến cận kề những bậc thang cuối cùng của đời người.
Những năm 60 của thế kỷ trước, khi đất nước còn đang khôi phục kinh tế, bước đầu cải thiện đời sống nhân dân sau chiến tranh chống Pháp, Khoa Ngữ Văn trường Đại họcTổng hợp mỗi năm chỉ tuyển vài, ba chục sinh viên, cả văn học và ngôn ngữ. Năm 1963, Khoa Ngữ văn tuyển được 60 sinh viên, cũng là khóa IV năm đầu tiên, gọi là khóa VIII.
Trường Đại học Tổng hợp xưa
Tuy số sinh viên nhiều hơn các năm trước nhưng để được chọn vào trường lại không dễ, do sau hòa bình lập lại, các trường phổ thông cấp III ở các địa phương được tái lập và mở rộng nhanh chóng, trong khi nhu cầu nhân lực trẻ cho công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh đang trở nên cấp thiết.
Vì vậy các trường đại học đều tuyển sinh rất hạn chế, không riêng gì Đại học Tổng hợp, những sinh viên trúng tuyển vào các trường đại học trong nước năm ấy đều thực sự là những gương mặt ưu tú, học giỏi trong cả nước, một số người từng chiếm giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi toàn miền Bắc.
Những sinh viên khóa này khá nhiều là con em nông dân, từ học sinh phổ thông mà thi vào đại học trong khi hiểu biết về nơi mình thi vào chưa chắc đã thấu đáo, lần đầu tiên xa làng quê, nhìn đời còn đơn giản vì đều sinh vào các năm trước hoặc sau năm 1945 một vài năm. Đáng chú ý là khóa VIII, Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp khi vào trường năm 1963 ấy số khá đông là học sinh miền Nam, tập kết ra miền Bắc theo ba, má là cán bộ, bộ đội; một số người thậm chí không có người thân đi cùng.
Một số không ít bản thân họ là cán bộ, bộ đội chuyển ngành, đã từng làm công tác văn hóa, chính trị trong những năm chiến tranh, có kinh nghiệm thực tiễn. Chính do số sinh viên miền Nam này mà sĩ số sinh viên khóa VIII vượt trội so với các khóa trước nhằm mục tiêu cụ thể là để sau này trở về miền Nam khi đất nước thống nhất, sẽ trở thành lực lượng nòng cốt của cách mạng.
Các giảng viên Khoa Ngữ Văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội - Ảnh tư liệu
Năm học 1963-1967 vừa khai giảng chưa bao lâu, khóa VIII lại tiếp nhận gần 30 sinh viên từ Trường lý luận nghiệp vụ thuộc Bộ Văn hóa chuyển sang. Đến cuối năm 1964 (năm thứ 2), khóa VIII lại tiếp nhận gần 30 sinh viên đang học nghệ thuật, điện ảnh từ Đông Đức, Liên Xô chuyển về học tiếp. Khóa VIII có tới 120 sinh viên, đông vượt trội so với các khóa trước với nhiều loại hình nghệ thuật và ngành nghề, đa dạng về trình độ nhận thức và lứa tuổi.
Dù có xuất phát điểm khác nhau, nhưng lớp sinh viên này đã bước chân vào giảng đường đại học với những ước mơ lãng mạn và sự trong sáng của tuổi trẻ sinh ra và lớn lên trong môi trường cách mạng. Đó là thời điểm kinh tế đất nước đã được phục hồi sau chiến tranh, miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội với kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, văn hóa, giáo dục được coi trọng, Chính phủ quan tâm đến công tác đào tạo đội ngũ lao động có trình độ cao, đáp ứng nhu cầu phát triển.
Các kỳ thi học sinh giỏi các môn học ở các trường phổ thông được tổ chức hàng năm phát hiện nhiều tài năng trẻ, khuyến khích thanh thiếu niên say mê học tập. Khóa VIII cũng có một số sinh viên từng đoạt giải trong các kỳ thi ấy, khi trở thành sinh viên họ vẫn là những sinh viên giỏi tiêu biểu của lớp. Đất nước còn nghèo nhưng hệ thống các trường phổ thông công lập và đại học đều không thu học phí, sinh viên như chúng tôi vào trường ngay từ năm thứ nhất đã được cấp học bổng với ba mức, tùy hoàn cảnh gia đình, đảm bảo ngoài số tiền ăn nộp cho nhà ăn tập thể hằng tháng, còn lại tạm đủ tiền tiêu vặt.
Các bữa ăn trong ngày đều được bếp ăn tập thể của trường phục vụ. Chúng tôi được ở ký túc xá miễn phí của trường, vì vậy hầu hết các bạn sinh viên dù có gia đình ở Hà Nội cũng vào ký túc xá ở cùng bạn học để thuận lợi trao đổi, giúp nhau trong học tập. Tất cả các loại giáo trình, sách giáo khoa, sách tham khảo sinh viên đều được cấp hoặc cho mượn miễn phí.
Hấp dẫn chúng tôi nhất là Thư viện Khoa Ngữ Văn, một ngôi nhà cấp bốn với bác thủ thư vừa thạo tiếng Pháp vừa giỏi tiếng Hán, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu đọc các loại sách phục vụ chương trình học tập. Chúng tôi đều hiểu đất nước và nhân dân còn muôn vàn khó khăn, Nam - Bắc còn chia cắt với biết bao nhiêu mối lo nhưng sinh viên vẫn được trang bị những phương tiện cần thiết nhất để yên tâm học tập.
Nhưng rồi, sự nghiệp chống Mỹ cứu nước ở miền Nam, sau phong trào đồng khởi ở Bến Tre năm 1960, toàn miền Nam đã bước vào giai đoạn đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang, đòi hỏi sức người sức của của cả nước, thì ở trường đại học, giảng đường, thư viện không còn bình yên nữa. Chính những năm chúng tôi vào trường đại học, ai cũng biết lương thực, thực phẩm cùng hàng ngàn thanh niên từ miền Bắc như dòng thác lũ chảy ào ạt vào miền Nam không còn bí mật nữa.
Lớp học và ngôi nhà ký túc xá của chúng tôi đã qua thời bình lặng, không thể ngồi yên trước những chuyển biến dông bão trên khắp đất nước. Việc học quân sự có trong chương trình hằng năm nhưng một tháng lăn lê, bò toài trong khuôn viên ký túc xá thời điểm ấy đối với chúng tôi như đang được rèn luyện để đi vào chiến trường. Cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ lan ra khắp miền Bắc, tiếng bom dội vào nơi chúng tôi ngồi học ở Hà Nội.
Và rồi, cùng với nhân dân Thủ đô, cả trường bao gồm các khoa Ngữ văn, Lịch sử, Toán, Hóa, Sinh... đồng loạt sơ tán lên thung lũng Đại Từ (Bắc Thái, nay thuộc Thái Nguyên). Dưới chân núi Tràng Dương, chúng tôi tự dựng cơ sở vật chất đủ để đáp ứng mọi hoạt động của một khoa Ngữ văn: các lớp học, thư viện, văn phòng khoa, nhà ăn tập thể, hội trường, căng tin..., tất cả đều bằng tranh, tre, nứa, lá. Sinh viên và cán bộ khoa, thầy cô giáo chia nhau ở trong nhà dân, được dân cưu mang.
Sơ tán đến tận vùng sâu vùng xa như thế là cách Chính phủ tạo cho thầy trò có điều kiện tương đối để học tập và nghiên cứu. Bình yên, nhưng không thể bình thản, bởi vì ở nơi ấy chúng tôi không thể không băn khoăn khi được người nông dân miền núi nghèo khó giúp đỡ, nhường cơm sẻ áo, bao bọc trong khi chính họ cùng khổ, hạt thóc gặt hái từ những thửa ruộng bậc thang manh mún vẫn phải chia sẻ cho chiến trường, con em họ vẫn lần lượt gác cày, treo cuốc rời làng nhập ngũ.
Bởi vậy, mỗi sinh viên chúng tôi phải tự điều chỉnh sao cho cân bằng giữa tâm trạng nôn nóng “nhập cuộc” với việc chuẩn bị cho tương lai vẫn luôn được xác định “học tập cũng là nhiệm vụ”, “là đánh Mỹ”. Dù sao, ai cũng hiểu, đất nước đang bị xâm lược, cả lớp đã hơn một lần viết đơn xin ra chiến trường.
Thế rồi, điều gì cần đến đã đến, tháng 11/1966, khi đang học năm thứ tư, 20 sinh viên của lớp đã được ra trường sớm theo yêu cầu của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước như một cơ hội để được dấn thân. Cán bộ tổ chức của Thông tấn xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam lên tận khu sơ tán trực tiếp cùng lãnh đạo khoa lựa chọn danh sách rồi sau đó đưa xe lên đón về cơ quan.
Trong số ấy, mười người về Thông tấn xã Việt Nam, mười người về Đài Tiếng nói Việt Nam. Chỉ ít lâu sau, cả người ra trường sớm, người học tiếp năm thứ tư đều đã tốt nghiệp và gặp nhau trên các nẻo đường, các mặt trận, đủ thời gian cần thiết cho thử thách và trưởng thành, cùng cả dân tộc đi đến ngày thống nhất đất nước năm 1975.
Nguyễn Kim Trạch, một trong mười sinh viên được chọn về Đài Tiếng nói Việt Nam tháng 11/1966 kể lại: “Chúng tôi trải qua hai tuần học tập, trong đó có một tuần học chính trị, hồi ấy vẫn gọi như thế để chỉ các đợt tập huấn tình hình thời sự trong và ngoài nước, học nghị quyết, đường lối rồi thảo luận nhiệm vụ trước mắt. Tuần còn lại chúng tôi học nghiệp vụ phát thanh như làm phỏng vấn, thu thanh, phóng sự, tin tức, bình luận thời sự... Cuối đợt học tập, Tổng biên tập Trần Lâm đến tổng kết và giao nhiệm vụ, theo ông, chúng tôi sẽ sống và tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam” nhưng không nhất thiết phải vào chiến trường, ngay tại Thủ đô cũng có mặt trận và vũ khí cho chúng tôi.
Có nghĩa là chúng tôi sẽ làm việc tại Hà Nội nhưng là công việc phục vụ cho cuộc đấu tranh của quân và dân miền Nam. Ngay sau đó, bảy người được biên chế về Đài phát thành Giải phóng A (có mật danh là CP 90), bộ phận biên tập ở 56 phố Quán Sứ. Tôi cùng hai anh khác nhận việc ở Ban Biên tập miền Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam.
Chúng tôi có nhiệm vụ làm các chương trình phát thanh dành cho thính giả ở miền Nam. Như thế gọi là đi B trên đất Bắc. Tuy nhiên, đến đầu năm 1975, cả tôi và Nguyễn Trương Đàn đều đã đi vào chiến trường thực sự trên hai chiếc xe chuyên dụng của hai đài, vừa đi vừa viết bài, phát sóng qua thiết bị trên xe để Hà Nội thu lại và phát trên các kênh sóng chính thức”.
Nhóm sinh viên về Thông tấn xã Việt Nam cũng được dự một lớp nghiệp vụ ngắn ngày để đi chiến trường và hầu hết họ đã đi vào các mặt trận phía Nam với tư cách nhà báo. Học hết năm thứ tư, nhiều sinh viên khác tiếp tục được bổ sung cho đội ngũ báo chí trên các mặt trận đang nóng bỏng.
Dưới đây là một vài trích đoạn hồi ký của Đoàn Tử Diễn, một sinh viên khóa VIII viết về các bạn cùng lớp đã sống và viết ở chiến trường như thế nào: “Tôi biết Đinh Dệ vào tháng 10/1963, khi chúng tôi vào khoa Văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cùng tập huấn ở lớp phóng viên phục vụ chiến trường B và sau này về công tác ở báo Báo Ảnh Việt Nam... Dệ vào chiến trường tháng 4/1969, trong lớp phóng viên mặt trận gửi vào chiến trường sau Mậu Thân. Đó cũng là lúc Bộ Ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời đang cần tin tức nóng hổi từ chiến trường phục vụ cho hòa đàm Paris. Cùng lớp với chúng tôi ở trường Đại học Tổng hợp đã có nhiều anh em vào trước ít năm. Thu Hoài vào năm 1967 ở căn cứ Khu 5 một thời gian thì xin về quê Bình Định, ít lâu sau trên Đài phát thanh đã có những ghi nhanh của anh về Phú Mỹ nổi dậy, tay không bứt phá nhiều đồn địch. Phan Văn Kính vào thẳng Khánh Hòa, vùng đất ác liệt và gian khổ nhất của chiến trường khu V. Hoàng Sĩ Ngọc về mặt trận Trị Thiên - Huế, quê hương yêu dấu của anh. Ở nhiều chiến trường miền Nam, anh em sinh viên cũ của Khoa Văn cũng sớm có mặt. Nhiều anh em trong số đó sớm hy sinh. Họ vốn là bạn bè cũ của chúng tôi những ngày còn trên ghế nhà trường”.
Đoàn Tử Diễn có những trang kể về Đinh Dệ đồng môn khóa VIII: “Tôi với Dệ như hai người đuổi bắt. Khi tôi ở Vĩnh Linh ra thì Đinh Dệ lên đường. Khi Vũ Xuân Mai, Ngô Thế Oanh, Hoàng Chu, Dương Đức Quảng, Bùi Hoàng Chung, Đoàn Tử Diễn vào Khu V thì Đinh Dệ không còn ở căn cứ khu nữa. Anh đi vào phía Nam Bình Định quê anh. Và thật bàng hoàng, anh đã trút hơi thở cuối cùng nơi con dốc đổ xuống thượng nguồn sông Côn”.
Đinh Dệ bị lính Mỹ phục kích trên đường làm nhiệm vụ nhà báo, khi ấy anh mới 28 tuổi. Nói đến đồng môn khóa VIII đi vào chiến trường, không thể không kể về Vũ Xuân Mai tức Trần Vũ Mai, “Anh đã lên đường đến với chiến trường Khu 5 ác liệt, đến với Nha Trang xa thẳm cực Nam... Từ Cực Nam, từ chiến trường Nha Trang - Khánh Hòa, những bài thơ của Trần Vũ Mai bắt đầu vang lên khắp đất nước qua sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Phát thanh Giải phóng. Với Những người đã lớn, Cực Nam, Thành phố nghiêng mình và sau này là trường ca Ở làng Phước Hậu, thơ Trần Vũ Mai là khúc tráng ca của thế hệ trẻ đi giải phóng và thống nhất đất nước” (Nguyễn Thế Khoa).
Chúng tôi đã thi vào và đã học văn chương nhưng cuối cùng có đến 80 phần trăm sinh viên ra trường đã trở thành nhà báo, làm nghề báo, gọi là “duyên văn, nghiệp báo” là vậy. Điều đó không do ý chí cá nhân mà là sự lựa chọn của thời cuộc. Trong bối cảnh chiến tranh chống xâm lược, nghề báo là nghề mũi nhọn, là người lính xung kích trên mặt trận đấu tranh dư luận và tư tưởng.
Không chỉ ở chiến trường mà ở các mặt trận khác của đất nước, người làm báo luôn luôn có những đóng góp nhất định. Nhiều người trong chúng tôi đã trở thành những cây bút sắc sảo, tầm vóc lớn, rất đông người đã giữ những trọng trách trong giới báo chí như tổng biên tập, phó tổng biên tập..., vụ trưởng, vụ phó các cơ quan quản lý báo chí.
Lớp trưởng Nguyễn Thái Ninh từng là Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương. Sinh viên Nguyễn Phú Trọng, đồng môn khóa VIII, ra trường khởi nghiệp tại một tờ tạp chí như bao người khác, nhưng nhờ nghị lực phấn đấu không mệt mỏi đã lần lượt được tín nhiệm giữ các chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước và hiện đang là Tổng Bí thư của Đảng, người đang kiên trì chỉ đạo công cuộc chống tham nhũng hiệu quả nhất từ trước đến nay. Chúng ta còn có thể kể hàng chục đồng môn khác là các giáo sư, tiến sỹ với các công trình khoa học có giá trị, các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu với những tác phẩm để đời.
Được như ngày nay, lớp sinh viên khóa VIII luôn nhớ ơn các thầy cô giáo, những cán bộ giảng dạy trực tiếp hoặc gián tiếp đã hun đúc cho sinh viên trước tiên là lòng say mê với văn chương và dẫn dắt chúng tôi vào đời. Nói như nhà thơ Vũ Duy Thông: “Sự nể sợ học vấn còn bởi ngay cạnh chúng tôi đang có một dàn thầy giáo bây giờ có nằm mơ cũng khó thấy. Đó là các thầy Hoàng Xuân Nhị, Hoàng Như Mai, Đỗ Đức Hiểu, Bạch Năng Thi, Tôn Gia Ngân, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Đinh Gia khánh, Chu Xuân Diên... (văn học), Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Tài Cẩn, Phan Cảnh, Hoàng Thị Châu (ngôn ngữ), Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng (lịch sử) và cả những thầy như Nhữ Thành, Cao Xuân Hạo không lên lớp, suốt ngày ngồi dịch sách...”.
Sau 55 năm ra trường, những đồng môn một thời bây giờ nhiều người đã không còn nữa, những người còn góp mặt trong các buổi họp lớp hằng năm thì tóc đã bạc. Sự thành đạt về công việc , về sáng tạo khoa học và nghệ thuật có thể không đồng đều, số phận cá nhân cũng như hoàn cảnh gia đình mỗi người mỗi khác, điều giống nhau là hầu hết đã gắn bó, đã dành hết cuộc đời mình , đặc biệt là tuổi trẻ của mình cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và xây dựng đất nước sau ngày thống nhất Bắc - Nam. Đó là một bộ phận trí thức đã trưởng thành nhờ đất nước và cùng đất nước mình.
Bình luận